Truy
tìm căn nguyên của sự thịnh vượng và nghèo đói giữa các quốc gia trên thế giới
là một chủ đề thu hút được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu khoa học xã hội
nói chung và các nhà kinh tế học nói riêng. Một câu hỏi tưởng chừng như đơn giản
là “Tại sao vẫn tồn tại các quốc gia giàu
có với mức thu nhập cao và tiêu chuẩn sống tốt trong khi còn nhiều quốc gia khác
chìm đắm trong nghèo đói và lạc hậu?” nhưng vẫn chưa tìm được câu trả lời
thống nhất mặc dù đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các giả thuyết khác nhau để
cố gắng lý giải thực tế này. Bài viết này tóm lược các quan điểm tranh luận về
căn nguyên cho thịnh vượng và nghèo đói theo phân loại ba nhóm giả thuyết là giải
thuyết địa lý, giả thuyết văn hóa, và giả thuyết thể chế.
Giả
thuyết địa lý cho rằng vị trí địa lý của quốc gia, được đặc trưng bởi thời tiết
và khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế. Vào năm 1748, Motesquieu,
một nhà bình luận xã hội và tư tưởng chính trị người Pháp, đã từng cho rằng con
người sống ở vùng ôn đới thường có xu hướng làm việc chăm chỉ trong khi người
lao động ở vùng khi hậu nóng thường lười làm việc. Ông đã dùng yếu tố khí hậu,
cụ thể là sự khác biệt giữa khí hậu ôn đới và nhiệt đới, để lý giải nguyên nhân
khác biệt sự giàu có giữa các quốc gia. Trong khi đó, Jared Diamond một nhà
nghiên cứu về sinh vật học lại cho rằng yếu tố địa lý có ảnh hưởng đến sự phát
triển của một quốc gia thông qua sự phân bố của chủng loài sinh vật. Trong quyển
sách “Súng, Vi trùng, và Thép”, Diamond đã lý giải rằng những vùng đất có tính
đa dạng sinh học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông
nghiệp khi có sự hỗ trợ của các loài sinh vật. Cụ thể, ông cho rằng việc thuần
hóa thành công các loài động vật sẽ tạo nên một sự đột phát về “cách mạng”
trong sản xuất nông nghiệp khi những con vật như trâu, bò, ngựa rừng được thuần
hóa thành công sẽ trở thành những công cụ hữu hiệu để sản xuất nông nghiệp. Chính
sự đa dạng sinh học và khả năng thuần hóa thành công động vật hoang dã sẽ là yếu
tố quan trọng tạo nên tính lan truyền “công nghệ” trong sản xuất nông nghiệp. Dựa
trên lập luận ấy, Diamond cho rằng châu Phi nghèo là bởi nó thực sự không phải
là châu lục có tính đa dạng sinh học cao và châu lục này cũng không “may mắn”
khi có nhiều động vật hoang dã khó thuần hóa. Ngoài ra, Diamond còn dùng yếu tố
địa lý dựa trên tính khác biệt về địa hình để lý giải vì sao phương Tây, cụ thể
là châu Âu, lại dân chủ và giàu có hơn phương Đông. Ông cho rằng, địa hình
phương Tây với đặc trưng bị chia cắt bởi nhiều núi cao nên các nhóm dân cư sẽ sống
trong một lãnh địa mà không bị xâm chiếm bởi các lãnh địa khác. Do đó, việc
hình thành nên các quốc gia riêng biệt có tính dân chủ là dễ dàng. Trong khi
đó, phương Đông có địa hình tương đối bằng phẳng với các đồng bằng rộng lớn nối
liền nhau tạo nên điều kiện để các vua chúa phong kiến có thể thống lĩnh dễ
dàng để tạo nên một quốc gia thống nhất và kiểm soát hoàn toàn. Tính dân chủ ở
các quốc gia phương Đông này cũng ở mức độ thấp hơn. Như vậy, giải thuyết địa
lý của Jared Diamond khá rộng khi lý giải căn nguyên giàu có của các quốc gia,
có thể gọi giả thuyết địa sinh học. Một nhà kinh tế học có tầm ảnh hưởng lớn
khác của trường phái giả thuyết địa lý là Jeffrey Sachs. Sachs cho rằng yếu tố
địa lý quyết định mức thu nhập của các quốc gia trên thế giới. Ông cho rằng
không phải ngẫu nhiên mà các nước nghèo đều tập trung ven đường xích đạo, nơi
có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Cụ thể lý giải nguyên nhân nghèo đói của khu vực
hạ-Sahara châu Phi, Sachs và cộng sự trong các nghiên cứu của ông cho rằng các
các quốc gia ở đây biệt lập, không có đường bờ biển bao quanh. Đây là nguyên
nhân làm cho việc đi lại khó khăn, và chi phí cho giao thông vận tải cao sẽ cản
trở sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, tính cát cứ và chia cắt của các
vùng, hay các quốc gia sẽ hạn chế khả năng xâm nhập của kinh tế thị trường tại
đây. Ngoài ra, Sachs còn sử dụng giả thuyết “Lời nguyền của nhiệt đới” để lý giải
sự đói nghèo ở các quốc gia có khí hậu nóng ẩm. Khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm là
môi trường rất thuận lợi cho việc phát sinh và phát tán các căn bệnh như sốt
rét. Bệnh tật làm suy giảm sức khỏe, và như hệ quả năng suất lao động thấp. Bên
cạnh đó, theo Sachs về mặt vật lý, đất đai ở các nước nhiệt đới thường ít màu mỡ,
dễ bị rửa trôi nên không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, một ngành quan trọng
của các nước nhiệt đới. Năng suất nông nghiệp thấp làm cho các quốc gia nhiệt đới
vẫn nghèo. “Lời nguyền tài nguyên” cũng được một số nhà kinh tế học sử dụng khi
nói về sự nghèo đói của các quốc gia nhiệt đới. Mặc dù cố gắng đưa ra nhiều bằng
chứng khá thú vị nhưng trường phái giả thuyết địa lý vẫn bị nhiều chỉ trích từ
các trường phái khác. Ví dụ, Daron Acemoglu và các cộng sự chỉ ra một số vùng mặc
dù có cùng địa lý nhưng trước kia rất giàu, nay lại rất nghèo như vùng Aztecs
và Incas ở châu Mỹ, hay Mughals ở Ấn Độ. Trong khi đó, Úc và Bắc Mỹ trước kia
là quốc gia kém phát triển nhưng bây giờ lại rất giàu có. Theo các nhà nghiên cứu
này, địa lý không thể giải thích được sự thay đổi trong mức thu nhập giữa các
quốc gia này.
Giả
thuyết thứ hai được xem khá thuyết phục trong việc lý giải sự giàu có và nghèo
đói là giải thuyết văn hóa. Giả thuyết văn hóa cho rằng chính các giá trị, niềm
tin và sự ưa thích trong xã hội về lao động chăm chỉ, cần cụ, và tiết kiệm sẽ
tác động đến hành vi của các công dân sống trong xã hội đó. Và điều này giúp
cho quốc gia có văn hóa như vậy có năng suất lao động cao. Một nhà nghiên cứu đại
diện cho trường phái này Max Weber. Có một số nền văn hóa khuyến khích hợp tác
trong khi một số khác thì không. Một điều khó khăn cho giả thuyết này là rất
khó để đo lường chính xác được “văn hóa”.
Giả
thuyết thứ ba, giả thuyết thể chế được phát triển trong thời gian gần đây bởi
Acemoglu và các cộng sự cũng cố gắng lý giải căn nguyên của nghèo đói và thịnh
vượng. Tiếp cận thể chế của Acemoglu và các cộng sự rất mới so với tiếp cận thể
chế trước đây của Ronald Coase hay Williamson khi họ đưa vào xem xét yếu tố thể
chế chính trị. Acemoglu cho rằng thể chế kinh tế thông qua việc thiết lập các
luật chơi tạo động cơ khuyến khích về mặt kinh tế cho các chủ thể trong xã hội
và bảo đảm quyền sở hữu tài sản tư nhân là quan trọng nhất để gia tăng năng suất
và tạo ra sự giàu có của các quốc gia. Nếu một thể chế kinh tế tốt tạo ra được
động cơ kinh tế thúc đẩy xã hội phát triển như vậy được gọi là thể chế kinh tế
dung hợp (inclusive economic institutions). Ngược lại nếu một thể chế kinh tế tồi
tệ, không tạo ra được động cơ lao động của các cá nhân trong xã hội và hình
thành nên các nhóm lợi ích làm giàu cho mình dựa trên nguồn lực xã hội được gọi
là thể chế kinh tế bòn rút (exclusive economic institutions). Tuy nhiên, không
dừng lại ở đó, Acemoglu và các cộng sự cho rằng yếu tố thể chế chính trị
(political institutions) mới là cội nguồn cho tất cả. Chính loại hình thể chế
chính trị cụ thể sẽ quy định thể chế kinh tế tương ứng. Cụ thể, thể chế chính
trị dung hợp (inclusive political institutions) nơi mà trong đó xã hội được quản
lý bởi nền hệ thống luật pháp chặt chẽ, tính dân chủ cao sẽ định hình nên thể
chế kinh tế dung hợp, Ngược lại, thể chế chính trị bòn rút (exclusive political
institutions) sẽ tạo nên thể chế kinh tế bòn rút. Trong quyển “Tại sao các quốc
gia thất bại?” Daron Acemoglu và James Robinson đã đưa ra rất nhiều dẫn chứng
thí nghiệm lịch sử để làm cơ sở cho lập luận của mình. Nổi bật trong đó, các
tác giả đã đưa ra giả thuyết về “Sự đảo chiều của vận may” (The Reversal of
Fortune) để bác bỏ giả thuyết địa lý khi cho rằng có một số quốc gia có địa lý
không thay đổi nhưng vẫn giàu lên từ nghèo khó do thể chế tốt (dung hợp) như
Hoa Kỳ, Canada, Úc. Đồng thời các tác giả đưa ra ví dụ trên Bán đảo Triều Tiên
để đả phá giả thuyết văn hóa khi cho rằng văn hóa và con người trên bán đảo Triều
Tiên là tương đồng nhưng nguyên nhân Nam Hàn giàu có trong khi Bắc Hàn nghèo
nàn, lạc hậu là do thể chể quyết định. Tuy nhiên ví dụ này bị phản bác lại bởi
các nhà nghiên cứu khác khi họ cho rằng khó có thể dùng hình ảnh bán đảo Triều
Tiên, một trường hợp quá đặc biệt, để khái quát cho cả thế giới.
Mặc
dù có một số giả thuyết khác như may mắn, hội nhập, ba giả thuyết địa lý, văn
hóa, thể chế được xem là có nhiều ảnh hưởng hiện nay trong việc lý giải căn
nguyên của thịnh vượng và nghèo đó trên thế giới. Một điều cần lưu ý là trong
các giả thuyết trên, địa lý, và may mắn khó có thể thay đổi, văn hóa thì thường
tiến hóa chậm, và nằm trong sự kiểm soát trực tiếp của xã hội. Chỉ có thể chế
là có thể thay đổi được. Có lẽ chính vì vậy mà gần đây giả thuyết thể chế đang
được ủng hộ bởi nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, sự tranh cãi về căn nguyên của
thịnh vượng và nghèo đói trên thế giới vẫn thực sự chưa đi đến hồi kết. Điều
này sẽ càng làm cho chủ đề nghiên cứu này càng trở nên thú vị và hứa hẹn sẽ nhiều
khám phá mới trong tương lai.
Lưu ý:
Các bạn có thể đọc và trao đổi bài này tại trang nhà của Khoa Kinh tế Phát
triển (UEH), mục Trao đổi học thuật.