Tuesday, May 08, 2012

Huân chương John Bates Clark 2012

Hàng năm, Hiệp hội Kinh tế học Hoa Kỳ đều trao Huân chương John Bates Clark cho (các) nhà kinh tế học xuất sắc dưới 40 tuổi bởi những sự đóng góp quan trọng của họ cho lý thuyết kinh tế học đương đại (trước 2009, giải thưởng này được trao 2 năm 1 lần). Giải thưởng này được xem là một “pre-nobel prize” bởi các nhà kinh tế học khi đã nhận được giải thưởng này thì đều trở thành những ứng viên nặng ký cho giải thưởng Nobel kinh tế học sau đó. Và trên thực tế đã có nhiều nhà kinh tế học được tôn vinh với giải thưởng Nobel sau khi nhận được huân chương John Bates Clark. Năm 1947, Paul A. Samuelson là nhà kinh tế học đầu tiên nhận giải thưởng này và sau đó vào năm 1970  ông đã nhận giải Nobel kinh tế. Tương tự như vậy đối với các trường hợp của Milton Friedman; James Tobin; Kenneth J. Arrow; Lawrence R. Klein; Robert M. Solow ; Gary S. Becker; Daniel McFadden ; Joseph E. Stiglitz; Michael Spence; James J. Heckman; Paul R. Krugman. Do đó, những ai được nhận Huân chương John Bates Clark thì thực sự là những tên tuổi lớn trong làng kinh tế học thế giới.


Năm nay  Huân chương John Bates Clark được trao cho Amy Finkelstein, giáo sư kinh tế học tại MIT. Amy được đánh giá cả bởi khả năng xác định được các vấn đề nghiên cứu cốt lõi và có khả năng ứng dụng chính sách cao trong lĩnh vực kinh tế học sức khỏe (health economics) mà các quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển, đang phải đối diện; đồng thời xây dựng được nền tảng kiến thức hàn lâm vững chắc cho các nghiên cứu thực nghiệm. Vì những đóng góp đó, Amy Finkelstein được xem là nhà kinh tế học hàng đầu hiện nay trong khoa học kinh tế sức khỏe. Điều đáng ghi nhận ở đây, Amy là một nhà kinh tế học nữ được nhận giải thưởng cao quý này cùng với Esther Duflo (2010). Năm 2009, Ostrom là nhà khoa học nữ đầu tiên nhận giải thưởng Nobel Kinh tế học, tuy nhiên Ostrom lại là một nhà chính trị học chứ không phải kinh tế học. Với giải thưởng John Bates Clark năm nay của Amy, rất có thể xác suất cho một nhà kinh tế học nữ có cơ hội nhận giải Nobel kinh tế học trong tương lai sẽ tăng lên.

Đóng góp nổi bật từ nghiên cứu của Amy cho lý thuyết kinh tế là thông tin bất cân xứng (asymmetric information) trên thị trường bảo hiểm, trong đó có thị trường bảo hiểm sức khỏe. Với mảng nghiên cứu này, Amy tập trung vào ba khía cạnh chính:
(i)    Kiểm định sự tồn tại của thông tin bất cân xứng trên thị trường bảo hiểm;
(ii)    Ước lượng cấu trúc (structural estimation) và phân tích hàm ý phúc lợi (analysis of welfare implications) của các mô hình nghiên cứu trong điều kiện thông tin bất cân xứng; và
(iii)    Tác động của chính sách công lên các thị trường bảo hiểm và y tế sức khỏe trong dài hạn.

Các nghiên cứu điển hình:

Multiple dimensions of private information: evidence from the long-term care insurance market 2006.  American Economic Review September 96(4): 938-958 (with Kathleen McGarry)

Adverse Selection in Insurance Markets: Policyholder Evidence from the U.K. Annuity Market  2004.  Journal of Political Economy 112(1) Part 1: 183-208 (with James Poterba)

Optimal Mandates and The Welfare Cost of Asymmetric Information: Evidence from the U.K. Annuity Market  2010. Econometrica (Vol 78(3): 1031-1092) (with Liran Einav and Paul Schrimpf)

Estimating Welfare In Insurance Markets Using Variation in Prices 2010. Quarterly Journal of Economics vol. 123 (3): 877-921  (with Liran Einav and Mark R. Cullen)

The Aggregate Effects of Health Insurance: Evidence from the Introduction of Medicare 2007. Quarterly Journal of Economics, 122(1): 1-37

The Interaction of Public and Private Insurance: Medicaid and the Long-Term Insurance Market 2008. American Economic Review 98(3): 1083-1102 (with Jeffrey Brown)