Saturday, May 05, 2012

Giáo dục và tăng trưởng kinh tế


Bài viết này xem xét các lý thuyết về mối quan hệ giữa giáo dục với tăng trưởng kinh tế tại khu vực Đông Á. Bài viết cho thấy giáo dục đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế nhưng nó chưa phải là một điều kiện đủ. Sự bổ khuyết của giáo dục cho các yếu tố khác để nâng cao năng suất và hiệu quả thường được nhìn nhận như là cách thức phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm thì lại không rõ ràng và khó thuyết phục vì các vấn đề liên quan tới kinh tế lượng. Những phân tích thống kê cho rằng mối quan hệ giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tế ở khu vực Đông Á được nhìn nhận theo hai hướng. Mặc dù vậy, việc đánh giá giáo dục là một bộ phận trong cấu thành các giá trị ở châu Á đã được chấp nhận rộng rãi. Theo đó, giáo dục được xem là yếu tố quyết định đáng kể thu nhập một cách lâu dài và một nhân tố tăng trưởng quan trọng, ngoại trừ khả năng giáo dục có thể làm tăng năng suất. Hệ thống giáo dục ở khu vực Đông Á cũng được hình thành và phát triển theo các giai đoạn phát triển kinh tế: ở giai đoạn phát triển kinh tế cao hơn, nhu cầu về giáo dục nhiều hơn và yêu cầu chất lượng cao hơn. 

Bài dịch: VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI KHU VỰC ĐÔNG Á: MỘT CUỘC KHẢO SÁT[1]. Tác giả: Risti Permani [2] [3]

Tải file của bài này tại: đây

Nghiên cứu gần đây về tăng trưởng kinh tế đã tập trung vào vai trò của vốn nhân lực. Khái niệm vốn nhân lực đã không còn xa lạ. Ngay từ đầu, các học giả cổ điển như Adam Smith, Heinrich Von Thunen, Alfred Marshall, và nhiều học giả khác, đã có những ý tưởng và sự quan tâm về khái niệm vốn nhân lực[4]. Tuy nhiên, trong khi khái niệm đã được nhận dạng thì tầm quan trọng của nó đối với tăng trưởng kinh tế, và sâu hơn là bản chất của “vốn nhân lực”, vẫn chưa được xác định như ngày nay.
Pigou (1928) đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu thuật ngữ vốn nhân lực trong nhóm từ ngữ đã được biết đến như sau: Có một sự tương đồng giữa đầu tư vào vốn nhân lực cũng như đầu vào tư liệu sản xuất. Do đó, ngay khi điều này được nhận ra, sự phân biệt giữa nền kinh tế dựa vào tiêu dùng và nền kinh tế dựa vào đầu tư trở nên “không rõ ràng” (Pigou 1928:29). Bài viết của Pigou đã nêu bật câu hỏi quan trọng: các nền kinh tế có nên đầu tư vào giáo dục hay không? Đây là một câu hỏi lớn thách thức các nhà kinh tế học trong việc chứng minh, hoặc cao hơn là nghiên cứu khả năng có sự tồn tại của mối liên hệ quan trọng giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể hơn, có tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tế hay không, và nếu có thì mối quan hệ nhân quả này là một chiều hay hai chiều?
Thật khó khăn khi giáo dục thường xuyên “được giả định” là một yếu tố quan trọng cho tăng trưởng, nhưng tầm quan trọng của nó đối với tăng trưởng chỉ được hỗ trợ bởi một vài nghiên cứu thực nghiệm. Sự khan hiếm các bằng chứng khoa học này đặt ra ba câu hỏi lớn: Vốn nhân lực có nên được định nghĩa trong một khung lý thuyết? Trong các phân tích thống kê để kiểm chứng mối quan hệ giữa vốn nhân lực và tăng trưởng, những cách thức nào nên được sử dụng để đo lường vốn nhân lực? Quan trọng hơn cả, giáo dục có phải là một yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế hay chỉ là một kết quả của tăng trưởng kinh tế? Những câu hỏi trên dẫn đến nội dung trọng tâm của bài viết này: tóm tắt nội dung và khảo sát vai trò của giáo dục, như một công cụ để đo lường vốn nhân lực, đối với tăng trưởng kinh tế cả lý thuyết và thực nghiệm trường hợp cụ thể các quốc gia tại khu vực Đông Á[5]. Đã có nhiều bài viết về chủ đề này[6],nhưng rất ít nghiên cứu đi sâu và cụ thể tại khu vực Đông Á[7].

Vốn nhân lực trong các mô hình tăng trưởng kinh tế

Giáo dục là tâm điểm chú ý đối với các nhà kinh tế học khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế kể từ khi các mô hình tăng trưởng nội sinh được giới thiệu. Vào những năm 1950, mô hình tăng trưởng Solow-Swan đã bao hàm cả lao động như là một yếu tố sản xuất gia tăng và tiến bộ công nghệ như là biến ngoại sinh khác-biệt-theo-thời-gian, các yếu tố quyết định tăng trưởng trong dài hạn (Solow 1957). Tiến bộ công nghệ được giới thiệu khi nó được tin là một nhân tố giải thích cách mà một nền kinh tế có thể sản xuất ra nhiều sản lượng hơn với cùng một lượng đầu vào cho trước. Một số lượng lao động cho trước có thể tạo ra nhiều sản phẩm hơn nếu họ có kiến thức tốt hơn về công nghệ và được trang bị nhiều máy móc - thiết bị công nghệ hiện đại hơn. Tuy vậy, việc xem tương quan giữa các biến số hay tham số với sai số như là một yếu tố nội sinh tiếp tục là một vấn đề khi mô hình này không giải thích tiến trình phát triển công nghệ diễn ra như thế nào. Đã có nhiều nỗ lực xem xét lại mô hình Swan-Solow. Một trong số các nỗ lực như vậy đã bao hàm luôn cả vai trò của vốn nhân lực, như khi nó được tranh luận về khả năng vốn nhân lực gia tăng sẽ làm tăng năng suất, dẫn đến mức thu nhập cao hơn (Schultz 1961)[8]. Vấn đề này được các nhà kinh tế học, những người đồng tình với các luận điểm trong lý thuyết vốn nhân lực của Schultz, ủng hộ(Blaug 1976).
Nhìn chung, vốn nhân lực được chia ra thành năm loại: tình trạng sức khỏe, đào tạo thực tế - thông qua công việc, giáo dục chính thức, các chương trình học tập khi trưởng thành và khả năng di chuyển để tìm kiếm các cơ hội công việc tốt hơn (Schultz 1961). Đã có những tranh luận cho rằng giáo dục là yếu tố quan trọng nhất để làm tăng sự tích lũy vốn nhân lực (Goode 1959; Schultz 1961). Sau đó, vào những năm 1960, khái niệm lao động hiệu quả đã được giới thiệu, trong đó, các mức độ tham gia giáo dục của người lao động được xem là một trọng số để đánh giá chất lượng lao động (NelsonPhelps 1966). Khái niệm này cho rằng có nhiều hơn một cách thức mà giáo dục có thể tác động tới quá trình sản xuất.


Kể từ những năm 1960, vai trò của vốn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế đã được nhiều nhà kinh tế học quan tâm rộng rãi khi nó được đánh giá kỹ hơn trong những khác biệt đối với tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết vốn nhân lực xem xét lại và mở rộng từ lý thuyết của Ricardo khi xem lao động như là một nhân tố sản xuất và không đề cập đến giả định về sự đồng nhất của lao động; nó cũng chỉ dựa trên các thể chế xã hội đơn giản, như các giá trị của gia đình và việc tham gia giáo dục (Bowle Gintis 1975). Nhưng vào những năm 1970, nghiên cứu về vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế hầu hết là các nghiên cứu định tính.
Vào những năm 1980, lý thuyết tăng trưởng nội sinh được Romer giới thiệu nhằm khắc phục những hạn chế đã được nhận ra trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển Swan-Solow (Romer 1986). Khung lý thuyết này làm nổi bật vai trò quan trọng của nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực, bao gồm giáo dục, như là cơ chế cho việc tích lũy kiến thức công nghệ.
Mặc cho tầm quan trọng của vốn nhân lực đã được nhận thấy, vẫn có nhiều bất đồng ý tưởng về cách thức mà vốn nhân lực vận hành trong các mô hình tăng trưởng. Những mô tả cụ thể về vốn nhân lực thường xuyên trùng lắp với các định nghĩa của tiến bộ công nghệ. Điều này gây ra khó khăn trong việc đánh giá sự ảnh hưởng của vốn nhân lực tới tăng trưởng kinh tế. Tích lũy vốn nhân lực có thể tạo ra lợi thế kinh tế theo qui mô khi nó làm tăng hiệu quả và năng suất sử dụng các nhập lượng đầu vào, bao gồm lao động và vốn vật thể (Schultz 1988). Vốn nhân lực cũng có thể thúc đẩy tiến bộ công nghệ (Jones 1998)[9]. Khái niệm tổng năng suất các nhân tố (total factor productivity-TFP), một cách đo lường năng suất rộng hơn, đã nhận được sự quan tâm đặc biệt trong các lý thuyết tăng trưởng gần đây. Tầm quan trọng và ý nghĩa của TFP đối với tăng trưởng kinh tế được bàn luận thậm chí còn nhiều hơn so với việc tích lũy yếu tố sản xuất (Easterly và Levine 2001).
Những ước lượng về sự đóng góp của vốn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế có thể cũng là một kết quả không rõ ràng trong các mô hình tăng trưởng. Hàm sản xuất thường xem thu nhập như là một hàm số của vốn, lao động hiệu quả (trọng số của lao động được tính bởi mức độ tham gia giáo dục của người lao động), tiến bộ công nghệ và độ co giãn của vốn theo sản lượng, . Lấy ln (logarit tự nhiên)để chuyển hàm sản xuất thành dạng tuyến tính. Giả định dữ liệu về thu nhập, vốn và giáo dục là sẵn có, những đóng góp của mỗi nhân tố tăng trưởng có thể được định giá một lần giá trị của  được giả định hoặc đạt được thông qua các ước lượng hồi quy. Do những khó khăn trong việc tìm kiếm biến đại diện phù hợp cho TFP, các hệ số hồi quy thường được diễn giải và phát triển từ một mô hình được đơn giản hóa, trong đó, thu nhập chỉ được hồi quy theo vốn, giáo dục, và lao động. Do đó, các sai số ngẫu nhiên được quan sát trong mô hình không chỉ bao gồm TFP mà còn các yếu tố khác chưa được đưa vào mô hình, như tác động của thể chế chính trị, phương thức quản lý, và các điều kiện địa lý. Các sai số này có thể đánh giá quá mức vai trò của đổi mới công nghệ và đánh giá không đầy đủ tầm quan trọng của các yếu tố khác, bao gồm cả vốn nhân lực[10].

Bằng chứng thực nghiệm và các vấn đề về kinh tế lượng

Giả định vốn nhân lực là một nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế thực sự không cần thiết trong lý thuyết vốn nhân lực được các bằng chứng thực nghiệm ủng hộ. Một vài nghiên cứu tranh cãi về các tác động quan trọng của tích lũy giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng của lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm (Romer 1986, 1990; Dougherty và Jorgenson 1996). Nhưng các nghiên cứu khác lại không tìm ra được các bằng chứng ủng hộ. Tập trung xem xét dữ liệu từ 58 quốc gia có thu nhập thấp trong giai đoạn từ 1985-1993, Brist và Caplan (1999) đưa ra kết luận rằng số người đi học là biến không thể giải thích giữa các quốc gia đối với tỷ lệ tăng trưởng của GDP thực trên đầu người, kỳ vọng cuộc sống, và tỷ lệ sinh. Sử dụng dữ liệu của hơn 100 quốc gia giai đoạn 1960-1990, nghiên cứu khác cho rằng chất lượng của lực lượng lao động có một mối quan hệ nhân quả bền vững, lâu dài và mạnh với tăng trưởng kinh tế nhưng chất lượng lao động này không liên quan tới đầu tư vào giáo dục chính thức (Hanushek và Kimko 2000). Sử dụng dữ liệu có được của 84 quốc gia trong giai đoạn 1960-2000, nghiên cứu khác quan sát được 2.3% tỷ lệ tăng trưởng sản lượng của thế giới trên một lao động được đóng góp bởi 1% sự gia tăng của vốn vật thể trên một lao động và tiến bộ công nghệ, và chỉ 0.3% là do vốn nhân lực, được tính chủ yếu là giáo dục (Bosworth và Collins 2003). Dưới đây là một vài vấn đề có thể xem xét trong các nghiên cứu gần đây.

Các dạng mô hình
Có hai cách thức ước lượng nguồn gốc của tăng trưởng: phương pháp kế toán và hồi quy tăng trưởng. Cả hai cách này đều có những hạn chế riêng. Trong khi phương pháp kế toán tăng trưởng thường không giải thích được các nguồn gốc quan trọng của tăng trưởng, thì phương pháp hồi quy tăng trưởng thường không lý giải được các vấn đề xảy ra đồng thời, tương quan cao giữa các biến trong các mô hình hồi quy bội, và giới hạn của tự do kinh tế.
Bảng 1
Các hệ số vốn nhân lực
Tác giả
Mô hình
Biến vốn nhân lực(HK)
Phương pháp
Hệ số
Mankiw, Romer &
Weil 1992
Mô hình Solow mở rộng, trạng thái ổn định
Giáo dục trung học
Dữ liệu chéo, OLS
0.28
Barro Lee 1992
Mô hình ở dạng độ lệch
Lấy log của Barro-Lee HK
Dữ liệu chéo, OLS
0.057
Barro Lee 1992
Mô hình ở dạng độ lệch
Lấy log của Barro-Lee HK
Dữ liệu bảng
0.021
Romer 1990
Mô hình Solow mở rộng, hàm sản xuất
Tỷ lệ biết chữ, sự thay đổi
Các biến công cụ, dữ liệu chéo
0.204
World Development
Report (WDR) 1991
Mô hình Solow mở rộng, hàm sản xuất
WDR HK, sự thay đổi
Dữ liệu bảng, theo năm
GD<3 năm: 0.09
GD>3 năm: 0.04
Benhabib
Spiegel 1992
Mô hình Solow mở rộng, hàm sản xuất
Kyriacou HK, sự thay đổi
Dữ liệu chéo
-0.021
Lau et al., 1991
Mô hình Solow mở rộng, hàm sản xuất
WDR HK, log khác biệt
Dữ liệu bảng, theo năm
0.016
Judson 1993
Mô hình Solow mở rộng, hàm sản xuất
Judson HK, tỷ lệ tăng trưởng
Dữ liệu bảng, GLS
0.098
Nguồn: Judson (1996:4)

Cũng vì vậy, một yêu cầu là cần phải lựa chọn cẩn thận các luận điểm quan trọng trong các mô hình lý thuyết (Collins, Bosworth và Rodrik 1996). Thậm chí các so sánh chéo có kết quả từ các hồi quy tăng trưởng thường rất khó xác định vì sự khác biệt về tiêu chí của các mô hình hồi quy. Có ba loại hồi quy tăng trưởng cơ bản: (i) dạng độ lệch, trong đó, tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân được hồi quy với những điều kiện ban đầu, các mức độ khác nhau và sự thay đổi các biến được kỳ vọng là có ảnh hưởng tới tăng trưởng; (ii) loại bỏ tăng trưởng ra khỏi hàm sản xuất Cobb-Douglas – trong đó, tăng trưởng GDP được hồi quy theo tỷ lệ tăng trưởng các yếu tố đầu vào cho sản xuất; và (iii) mở rộng những dự báo của mô hình Swan-Solow về tăng trưởng trạng thái ổn định (steady-state growth) (Judson 1996). Ước lượng hai loại đầu ở trên thường cho kết quả các hệ số của các biến vốn nhân lực thấp một cách bất hợp lý, không có ý nghĩa thống kê hoặc mang dấu âm; trong khi loại thứ ba cho ra hệ số hồi quy của vốn nhân lực có giá trị lớn, mang dấu dương, và có ý nghĩa thống kê (Judson 1996). Bảng 1 đưa ra những so sánh giữa ba cách ước lượng này.

Sai số chuẩn
Trong thống kê, sai số chuẩn (bị loại trừ bởi biến số không phù hợp) vì khái niệm không rõ ràng của TFP có thể gây ra các ước lượng bất hợp lý trừ khi TFP không tương quan với lao động, vốn nhân lực, và vốn vật thể. Cách giải quyết hạn chế này — đó là, TFP không tương quan với lao động, vốn nhân lực và vốn vật thể — là không xem xét thực tế vai trò ban đầu của công nghệ đối với việc nâng cao hiệu suất sử dụng các đầu vào này[11].

Hàm sản xuất
Khi hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đều sử dụng cách tiếp cận hồi quy tăng trưởng dựa trên bộ dữ liệu rộng giữa các quốc gia (Romer 1986, 1990; Sachs và Warner 1997; Bosworth và Collins 2003), có một vấn đề thường xuất hiện là giả định về hàm sản xuất đồng dạng cho các quốc gia này, điều này dẫn đến việc nguy cơ loại trừ các biến không phù hợp (omitted variable bias)[12]. Để giải quyết vấn đề này, cần chấp nhận những khác biệt về “ảnh hưởng của đặc điểm quốc gia” không thể quan sát được trong hàm sản xuất giữa các quốc gia, có thể được mô hình hóa với khung dữ liệu bảng[13]. Những lợi ích của dữ liệu bảng cũng bao gồm việc cung cấp thông tin, dữ liệu biến thiên hơn, ít tuyến tính hơn giữa các biến số, nhiều mức độ tự do hơn, và hiệu quả hơn (Baltagi 1995). Phân tích dữ liệu bảng cũng phù hợp hơn so với hồi quy bình phương bé nhất thông thường (OLS) – phải chịu tác động của hiện tượng đa cộng tuyến ngoài các vấn đề tương quan giữa biến giải thích và các sai số[14].

Lựa chọn biến đại diện cho vốn nhân lực
Các biến số đầu vào khác nhau có thể cho ra các kết quả khác biệt. Vốn nhân lực được chấp nhận rộng chỉ trong giới hạn giáo dục và đào tạo chính thức, mặc dù nó cũng được tạo ra thông qua các cơ chế học tập phi chính thức. Biến số vốn nhân lực thường được đại diện bởi quá trình tham gia giáo dục chính thức, như tỷ lệ phổ cập giáo dục, số năm đi học, tỷ lệ biết chữ — nhưng những khía cạnh này đang có nhiều tranh cãi. Một số tranh cãi được đưa ra trong Bảng 2.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về giáo dục thường sử dụng số năm đào tạo chính quy trung bình làm đại diện do hạn chế về dữ liệu nghiên cứu (Benhabid và Spiegel 1994; Islam 1995)[15]. Vấn đề này có thể thấy được từ các loại dữ liệu được cung cấp từ một trong số cơ sở dữ liệu biến giáo dục được đề cập nhiều nhất, cơ sở dữ liệu của Barro và Lee, thông qua việc xem xét chất lượng giáo dục (Barro và Lee 1996). Biến này không có trong Bảng 2. Do đó, đem vào thêm các biến khác là cần thiết để đảm bảo chất lượng đánh giá — ví dụ,tỷ lệ sinh viên trên một giáo viên và tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục từ ngân sách của chính phủ — mặc dù các biến số này không xem xét đầy đủ vai trò của đào tạo, như quá trình học tập thông qua làm việc, và cấu trúc chương trình giáo dục đối với tích lũy vốn nhân lực (Lee 2000)[16].

Thiết lập các biến số
Tranh luận trong việc kiểm soát các tác động dài hạn, các nghiên cứu nên tập trung xem xét các mức thu nhập và vốn nhân lực, xa hơn là tỷ lệ thay đổi của chúng (Bloom et al.2000). Đề nghị này được hỗ trợ qua các bằng chứng tác động thuận chiều của các mức giáo dục nhưng không có sự thay đổi trong bản chất giáo dục (Benhabib và Spiegel 1994).

Trọng số
Xác định trọng số của biến vốn nhân lực cũng là một vấn đề quan trọng đối với các kết quả ước lượng. Xác định các trọng số cần dựa vào các giai đoạn của nền kinh tế và mức độ phát triển của giáo dục (Bayhaqi 2001). Kết luận này được hỗ trợ bởi thực tế thông qua các bằng chứng đặc trưng về tác động của vốn nhân lực đối với tăng trưởng cả ở mức độ sơ cấp và thứ cấp tại các nước đang phát triển có mức thu nhập ngang bằng hoặc dưới mức trung bình và các nước phát triển ở nhóm thứ ba (Richardson 1997; Revoredo và Morisset 1999). Tương tự, cũng có những bàn luận đáng chú ý về mối quan hệ của việc hình thành vốn nhân lực với mức độ phát triển công nghiệp (Lall 1998)[17].

Chọn mẫu
Việc lựa chọn quốc gia và giai đoạn nghiên cứu cũng có khả năng ảnh hưởng tới kết quả ước lượng. Đã có một nghiên cứu đem vào cả giai đoạn khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Á và kết quả kinh tế sau giai đoạn này cho thấy đóng góp tích cực từ vốn nhân lực, và sâu hơn, nó tạo ra những thành quả còn lớn hơn cả đầu tư (Permani 2008). Sự đối lập tồn tại trong suốt giai đoạn 1965-1985, khi mà vốn nhân lực không những chưa tạo ra đóng góp cho tăng trưởng mà còn gây ra chi phí cho nền kinh tế. Nghiên cứu này cũng cho thấy, dựa trên số liệu giai đoạn 1965-1985, tỷ lệ đóng góp của đầu tư ( ) ở các nước Đông Á còn cao hơn cả các nước OECD nhưng thấp hơn mức trung bình của thế giới, kết luận bởi Islam (1995). Kết quả này phản ánh những khác biệt do việc lựa chọn quốc gia làm đối tượng nghiên cứu (xem Bảng 3).

Bảng 2
Những hạn chế của các chỉ số giáo dục
Chỉ số
Những hạn chế
1.  Tỷ lệ tham gia giáo dục
·       Sử dụng tỷ lệ tham gia giáo dục có giá trị thống kê, nhưng biến số này lại không liên quan đến phân tích vốn nhân lực vì trong nguồn dữ liệu này, cả dữ liệu sơ cấp lẫn thứ cấp đều có quan hệ nghịch chiều với tỷ lệ tăng trưởng của vốn nhân lực (Pritchett 1996).
·       Chưa tính đến khía cạnh chất lượng của giáo dục.
·       Tỷ lệ tham gia giáo dục thể hiện được mức độ đầu tư vào vốn nhân lực tốt nhất nhưng nó lại không phải là một biến số nói lên mức độ tích lũy (Benhabib và Spiegel 1994).
·       Độ tin cậy chỉ dừng lại ở mức độ lý thuyết khi nó liên quan phần lớn đến những cá nhân không nằm trong lực lượng lao động, và do đó, không đem đến bất kỳ đóng góp nào cho GDP hiện tại. Quả thực, tỷ lệ này thậm chí không thuộc vào mức độ tích lũy vốn nhân lực được kỳ vọng (Stroombergen, Rose et al. 2002).
2.  Tỷ lệ biết chữ
·       Biết chữ là một biến tích lũy, nhưng cũng có một vài vấn đề thực nghiệm như sự khác biệt khi so sánh giữa các quốc gia, tính không đồng nhất do việc bất cân xứng của việc chọn mẫu theo hướng thiên về khu vực thành thị, và thực tế các nước phát triển có tỷ lệ biết chữ gần như tương đồng (Benhabib và Spiegel 1994).
·       Chỉ số này là một thành phần không thể thiếu của vốn nhân lực,nhưng nó lại không phản ánh được mức độ biết chữ, loại hình, và đóng góp của các kỹ năng tăng thêm trong các kiến thức  về số học, phân tích, kỹ thuật và các kiến thức khác. Các mức độ biết chữ cũng thường bất tương xứng với mức độ tham gia giáo dục (Stroombergen, Rose et al. 2002).
3.  Số năm trung bình tham gia giáo dục chính thức (đào tạo chính quy)
·      Chỉ số này không tính đến khía cạnh chất lượng giáo dục. Ví dụ, một năm tham gia đi học ở Papua New Guinea được giả định sẽ tạo ra mức tăng tương ứng vốn nhân lực như một năm đi học tại Nhật Bản (Hanushek và Woessmann 2007, tr.21). Hơn thế, một người với 12 năm đi học được xem như bằng 2 người có 6 năm đi học  (Stroombergen, Rose et al. 2002).
·      “Phóng đại” tăng trưởng vốn nhân lực từ xuất phát điểm thấp của giáo dục (Collins, Bosworth et al. 1996). Tranh luận này được hỗ trợ của một nghiên cứu từ các nước OECD, với xuất phát điểm cao về giáo dục, nghiên cứu này không tìm ra được bằng chứng nào về mối liên quan giữa mức độ tham gia giáo dục ban đầu và tăng trưởng kinh tế (Krueger and Lindahl 2001).
Nguồn: Tác giả tổng hợp

Mặc dù gặp phải những khó khăn về kinh tế lượng, một vài học giả vẫn cho rằng giáo dục, cụ thể là hệ thống trường lớp hiện tại, không phải là một nhân tố tăng trưởng quan trọng:
Hệ thống đó không tạo ra vốn nhân lực. Giáo dục có thể không thực sự làm gia tăng các kỹ năng có thể nhận biết hay năng suất nhưng nó có thể làm tăng mức lương cá nhân vì theo quan điểm của chủ doanh nghiệp nó giúp phát tín hiệu (signal) về một tiêu chuẩn có lợi cho công việc như hoài bão hay các tố chất phù hợp (Pritchett 1996:2).

Bảng 3
Ước lượng hệ số các biến hồi quy cho các nước
trong khu vực Đông Á và các nhóm nước khác
Biến phụ thuộc: ln
Đông Á a
Nghiên cứu so sánh b
Quốc tế
Các nước phi dầu hỏa
Các nước OECD
Dữ liệu trong giai đoạn
1965-85
1965-2000
1960-85
1960-85
1960-85
Phương pháp ước lượng
IV-FEc
IV-FE
LSDVd
LSDV
LSDV
Độ co giãn của sản lượng theo vốn nhân lực ( )
-0.067
0.201
-0.0069
-0.1990
-0.045
Độ co giãn của sản lượng theo vốn ( )
0.342
0.058
0.4947
0.5224
0.2074
Tỷ lệ hội tụ ( )
0.053
0.039
0.0440
0.0375
0.0913
a Permani (2008).
b Islam (1995).
c Biến số công cụ trong phương pháp hiệu ứng cố định.
d Biến giả bình phương bé nhất.


Đây là một quan điểm mà các nhà làm giáo dục khó mà chấp nhận được. Nhưng nó lại là ý kiến trái chiều hợp lý, lưu ý rằng trong khi giáo dục được chứng minh là một yếu tố quyết định thu nhập một cách bền vững, ý nghĩa của nó trong việc nâng cao năng suất vẫn còn là tranh cãi chưa thể thống nhất.
Một vấn đề quan trọng khác trong việc mô hình hóa giáo dục là mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tế. Quan điểm về vai trò quan trọng một cách bền vững của giáo dục được dựa trên quan sát về các tiêu chuẩn và tính dịch vụ cao trong giáo dục ở các nước phát triển. Tuy nhiên, tương quan này rất có thể là một hướng sai. Nhưng khi vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế không thể kết luận, có thể có ý kiến là giáo dục là một kết quả, và không phải là điều kiện tiên quyết, cho tăng trưởng kinh tế. Kết quả của các tranh cãi cũng có thể là sự đánh giá quá mức vai trò của giáo dục, như trường hợp được chứng minh ở châu Á và châu Phi (Hanf et al.1975).

Giáo dục và tăng trưởng kinh tế ở khu vực Đông Á

Phân tích khu vực
Đông Á là một trong những khu vực được chú ý nhiều nhất bởi những thành quả tăng trưởng ấn tượng của nó trong những năm 1990 và có mức thu nhập bình quân đầu người hội tụ về với nhóm nước công nghiệp hóa đầu tiên. Các học giả ủng hộ các lý thuyết tích lũy cho rằng thành công của Đông Á là nhờ vào việc tích lũy các nhân tố hơn là tăng trưởng do năng suất hay hiệu quả sử dụng nguồn lực[18]. Nhiều nhà kinh tế học cho rằng các nguồn lực khác cho tăng trưởng gồm có vai trò của chính phủ, tự do thương mại, và ổn định kinh tế vĩ mô[19]. Trong khi đó, các nhà kinh tế học khác lại nhìn nhận nguyên nhân chủ yếu cho thành công của Đông Á, đặc biệt trong suốt giai đoạn từ những năm 1960 đến 1990, là việc theo đuổi chính sách công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu (export-oriented industrialization - EOI) (Morris 1996; Chen 1997). Đương nhiên là ý kiến này có thể khác với thực tế xảy ra về những tiến bộ công nghệ đáng kể mà khu vực Đông Á đã đạt được[20]. Nhưng các quan điểm trái chiều khác lại cho rằng các nhà kinh tế ủng hộ chính sách EOI đã bỏ qua các nhân tố đặc trưng khác, như giáo dục – là kết quả từ những tác động tích cực của thuộc địa hóa cơ sở hạ tầng, và phát triển mạng lưới cho hội nhập quốc tế ở Đông Á (Gulati 1992).
Ngân hàng Thế giới (1993) phân tích yếu tố quan trọng đối với thành công của Đông Á trong suốt giai đoạn 1965-1990 là “thiết lập được nền tảng phù hợp” cho tăng trưởng, bao gồm tích lũy vốn nhân lực thông qua phổ cập giáo dục tiểu học và trung học, trong khi giáo dục đại học được càng được tự chủ về mặt tài chính hơn. Sử dụng các công cụ toán học phổ biến và điểm kiểm tra khoa học trong suốt giai đoạn 1960-1990, Hanushek và Kimko (2000) kết luận rằng ước lượng tác động của tăng trưởng đối với cải thiện chất lượng lao động đã suy giảm đáng kể từ khi Đông Á bị loại trừ khỏi nhóm quốc gia có chất lượng lao động cao. Trái lại, Mingat (1998) lại cho rằng “thần kỳ” Đông Á có được phần lớn là nhờ vào phát triển vốn nhân lực, sinh lợi nhờ việc phân bổ nguồn lực có hiệu quả. Tăng trưởng của TFP nhanh hơn ở Hồng Kông là nhờ phần lớn vào lực lượng lao động được đào tạo tốt hơn so với Singapore – quốc gia xem trọng vai trò của giáo dục trong đổi mới (Young 1995)[21]. Tranh luận này cũng được hỗ trợ bởi thực nghiệm các phương pháp đánh giá vai trò khác của vốn nhân lực như kỳ vọng cuộc sống, và gánh nặng nợ trong thành công của kinh tế Đông Á, sử dụng dữ liệu từ 1965-1990 (Bloom et al. 2000).
Collins et al. (1996) sử dụng phương pháp phân tích thành tố của tăng trưởng, dữ liệu từ những năm 1960 đến đầu thập niên 1990, để so sánh hiệu quả tăng trưởng của các nước Đông Á. Họ đã phát hiện rằng chỉ một phần nhỏ tăng trưởng Đông Á là do đóng góp của TFP, phần lớn còn lại là do vốn. Vai trò của vốn đóng góp cao nhất trong giai đoạn 1973-1984, đóng góp khoảng 71.1% tăng trưởng sản lượng trên một lao động, trong khi TFP chỉ đóng góp 13.6%. Trong những năm gần đây (các thập niên 1980 và 1990), TFP tăng tỷ lệ đóng góp (39.8%) trong khi tỷ lệ này của vốn giảm xuống 46.4%. Đáng chú ý, đóng góp của giáo dục là không đổi trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế, khoảng giữa 10% đến 15%. Phát hiện này cho thấy giáo dục đóng vai trò như một nhân tố tăng trưởng, mặc dù đóng góp của nó có thể là rất nhỏ so với đóng góp của vốn và TFP. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên lưu ý rằng tăng trưởng của TFP có khả năng là một kết quả có được từ sự phát triển của khu vực giáo dục.
Collins et al. (1996) không xem xét giai đoạn khủng hoảng và hậu khủng hoảng tài chính Đông Á 1997. Permani (2008), sử dụng dữ liệu giai đoạn 1965-2000, ước lượng dữ liệu bảng về lao động hiệu dụng trong mô hình Solow cho các nước Đông Á, đã cho thấy ảnh hưởng lớn của vốn nhân lực (đo lường bằng số năm đi học) đối với tăng trưởng kinh tế, ngoài tỷ lệ đóng góp của đầu tư và tăng trưởng dân số[22]. So sánh với kết quả phân tích dữ liệu trước khủng hoảng 1997, đã có một sự đóng góp gia tăng của giáo dục và mức thấp hơn của đầu tư. Kết quả này ủng hộ quan điểm giáo dục là nguồn lực cho tăng trưởng trong dài hạn.
Các dấu hiệu có thể thấy về phát triển giáo dục nhanh chóng ở khu vực Đông Á là phổ cập giáo dục tiểu học, nâng cao tỷ lệ tham gia giáo dục phổ thông và giáo dục đại học (xem Bảng 4). Thành công này một phần là nhờ vai trò của chính phủ các nước. Ở hầu hết các nước Đông Á, hệ thống giáo dục được tập trung hóa, đặc biệt là đối với giáo dục tiểu học và trung học. Tập trung hóa giúp chính phủ chuẩn hóa được giáo dục chính thức, bao gồm cấu trúc chương trình và các hệ thống quản lý, tài chính cho giáo dục. Đáng chú ý, thực hiện tập trung hóa giáo dục chiếm một phần nhỏ trong chi tiêu của chính phủ trên GDP. Trong khoảng 1985 đến 2006, đóng góp từ tài trợ tài chính cho chính phủ các nước Đông Á phát triển giáo dục đã giảm hơn 5% trên GDP, ngoại trừ Malaysia chiếm khoảng 8% trong những năm gần đây. Một hình thức tài trợ chủ yếu là các chương trình học bổng. Trong khoảng 1982-1983, 66.7% sinh viên tham gia học tập tại năm trường đại học ở Malaysia đều được tài trợ bởi chương trình học bổng của chính phủ. Ngoài ra, có khoảng 12,800 người Malaysia học tập ở nước ngoài (Mehmet 1984). Con số này không phải là một thông tin bất ngờ khi ước lượng 67% người nhận học bổng đã làm việc trong khu vực công sau khi hoàn thành khóa học (Mehmet và Hoong 1985).
Cũng có ít hơn quan điểm đánh giá cao vai trò của vốn nhân lực ở khu vực Đông Á. Trong khi không có nền kinh tế nào có tỷ lệ tăng trưởng về tham gia giáo dục trung học và đại học mang dấu âm — trong 15 năm trở lại đây, giáo dục ở Đông Á tiếp tục chứng kiến sự mở rộng — hiệu quả kinh tế gần đây ở khu vực Đông Á được chia làm hai giai đoạn: trước và sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 (xem Bảng 5). Trong giai đoạn 1997-2000, có một sự sụt giảm đáng kể tăng trưởng GDP ở một vài nền kinh tế Đông Á — cụ thể là ở Indonesia, Thái Lan, Hàn Quốc, và Macao — và sụt giảm ít hơn ở Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Malaysia, và Singapore. Sự ‘đổ vỡ’ cấu trúc này có thể là một nguyên nhân chính lý giải tại sao tầm quan trọng của giáo dục được nhận diện nhưng mối quan hệ thống kê của nó lại không rõ ràng.
Tranh cãi về đóng góp của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế cũng nhiều hơn do quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế học về lựa chọn yếu tố quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế ở Đông Á. Nhìn chung, giáo dục không phải là một nhân tố hàng đầu cho tăng trưởng. Nhấn mạnh ý nghĩa mối quan hệ giữa việc chuyển đổi cấu trúc kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, Rada và Taylor (2006) nhìn nhận mối quan hệ chính thức giữa tăng trưởng của giáo dục và tăng trưởng kinh tế, được tính bằng số năm đi học và tăng trưởng GDP bình quân đầu người. Tuy nhiên, họ đã đi đến kết luận giáo dục ở các nền kinh tế Đông Á là cần thiết nhưng không phải là điều kiện đủ để duy trì tăng trưởng. Thực vậy, Gundlach và Woessmann (2001) nhìn nhận rằng mặc dù tăng trưởng kinh tế cao trong những năm 1990, vẫn có sự giảm sút trong hiệu quả giáo dục do kết quả của việc tăng tương đối học phí và giảm tỷ lệ sinh viên trên giáo viên. Nhận định này một cách gián tiếp đã ủng hộ quan điểm cho rằng tăng trưởng kinh tế ở khu vực Đông Á vẫn có một ít liên quan với phát triển vốn nhân lực. Một nguyên nhân có thể xem xét là việc phân bổ nguồn lực trong giáo dục không được dựa trên nguyên lý tối đa hóa đầu ra như đã được giả định trong lý thuyết vốn nhân lực thực chứng (Pritchett và Filmer 1997).



Bảng 4
Tỷ lệ đi học (% tổng dân số)[1]
Quốc gia
Tiểu học
Trung học
Đại học
1985-1996
1997-2000
2001-2006
1985-1996
1997-2000
2001-2006
1985-1996
1997-2000
2001-2006
Brunei
113.8
112.7
108.1
76.5
84.1
91.6
-
11.4
14.4
Campuchia
86.7
99.5
131.1
29.0
16.9
23.8
0.7
2.2
2.8
Trung Quốc
125.2
-
116.6
48.7
62.3
68.8
3.0
7.0
14.2
Hồng Kông
102.4
103.9
108.4
79.6
-
83.5
-
-
30.7
Indonesia
114.2
110.9
115.4
45.5
54.9
60.4
9.2
-
15.6
Nhật Bản
99.7
101.3
100.6
97.1
101.9
102.2
29.6
45.4
51.4
Lào
104.9
95.8
103.2
89.8
99.9
91.9
38.6
69.0
85.4
Malaysia
98.6
101.3
104.7
65.1
77.3
91.0
25.4
27.0
63.9
Myanmar
95.4
98.3
94.0
57.1
69.3
71.9
8.2
24.0
29.1
Philippines
107.2
88.6
93.2
22.3
36.0
38.9
4.3
8.4
11.3
Singapore
109.5
112.7
112.4
70.7
75.8
82.2
27.1
28.0
29.8
Thái Lan
103.4
-
-
67.1
-
-
20.5
-
-
Việt Nam
98.1
93.1
97.9
30.7
-
79.4
-
33.4
40.2
Trung bình
104.55
101.65
107.13
59.94
67.84
73.80
16.66
25.58
32.40
Độ lệch chuẩn
9.77
7.93
10.78
23.63
26.70
23.10
13.21

24.31
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2007), giá trị trung bình được tính bởi tác giả
[1] Tỷ lệ này có thể vượt quá 100% nhóm tuổi bởi vì sự lặp lại của người học, cộng với những người học quá tuổi khác.


Mối quan hệ không rõ ràng giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tế cũng có thể là do thực tế không có tương quan nghịch lớn giữa tham gia giáo dục đại học với tỷ lệ lao động trình độ đại học bị thất nghiệp[23]. Mặc dù số người học đại học tăng lên, Bảng 6 thể hiện rằng tỷ lệ thất nghiệp có trình độ đại học vẫn tăng lên ở hầu hết các nền kinh tế Đông Á trong suốt giai đoạn 1985-2006. Kết quả này có thể là do sự chênh lệch giữa cung và cầu lao động có trình độ. Tăng cầu lao động có trình độ yêu cầu hiệu quả kinh tế vĩ mô cao. Khi một nền kinh tế chuyển từ giai đoạn phát triển thấp lên cao hơn, cầu về lao động có trình độ tăng. Nhưng điều này có thể không xảy ra ở Đông Á.
Mặc dù vậy, nghiên cứu của Mincer (1991) lại cho thấy giáo dục làm giảm rủi ro thất nghiệp, vốn đã xảy ra ở nhiều quốc gia. Ngoại trừ Singapore và Philippines trong những năm gần đây, lao động trình độ đại học có tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn so với lao động chỉ đạt trình độ giáo dục tiểu học và phổ thông. Nhưng, nếu tăng trưởng giáo dục đại học nhanh hơn cầu về lao động có trình độ tương ứng thì có thể xảy ra tình trạng tỷ lệ lao động có trình độ đại học thất nghiệp tăng lên.


Bảng 5
GDP, tăng trưởng GDP và chi tiêu khu vực công cho giáo dục
Quốc gia
GDP (Cố định 2000 US$;
‘000 000)
Tăng trưởng GDP
 trên đầu người (%)
Chi tiêu khu vực công
 cho giáo dục (%GDP)
1985-1996
1997-2000
2001-2006
1985-1996
1997-2000
2001-2006
1985-1996
1997-2000
2001-2006
Brunei
3,817
4,217
4,650
-1.9
-1.2
0.5
3.5
4.4
-
Campuchia
2,469
3,219
4,661
4.1
5.5
7.0
-
1.3
1.8
Trung Quốc
528,460
1,071,195
1,575,324
8.9
7.3
8.8
2.2
1.9
-
Hồng Kông
114,178
156,470
184,605
4.2
2.5
3.5
2.8
-
4.2
Indonesia
117,316
164,494
188,384
5.4
-2.0
3.3
1.0
1.4
1.1
Nhật Bản
3,997,790
4,575,273
4,791,428
2.9
0.4
1.3
-
3.5
3.6
Hàn Quốc
300,337
469,133
587,422
7.4
3.1
4.0
3.8
3.8
4.4
Lào
997
1,593
2,076
2.8
3.5
3.8
-
1.2
2.3
Malaysia
50,383
83,961
100,822
4.8
1.3
2.5
5.1
5.9
8.0
Myanmar
-
-
-
0.6
6.6
7.8
-
0.6
1.3
Philippines
54,545
71,145
84,729
0.4
1.4
2.6
3.0
3.9
3.2
Singapore
48,035
83,835
99,918
5.1
3.7
2.4
3.1
-
3.7
Thái Lan
83,954
119,350
141,120
7.3
-1.7
4.1
3.1
5.0
4.6
Việt Nam
16,520
28,642
38,653
4.3
4.9
6.3
1.8
-
-
Trung bình
409,139
525,579
600,297
4.0
2.5
4.1
2.9
3.0
3.5
Độ lệch chuẩn
1,088,486
1,251,513
1,329,731
2.9
3.0
2.5
1.1
1.8
1.9
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2007), giá trị trung bình được tính bởi tác giả



Tác động của giáo dục lên tăng trưởng
Giáo dục tác động lên tăng trưởng kinh tế theo nhiều cách khác nhau. Đầu tiên, các tác động là trực tiếp. Sử dụng số liệu giai đoạn 1971-2002, Kwach và Lee (2006) cho thấy giáo dục tác động trực tiếp lên tăng trưởng kinh tế ở Hàn Quốc, ngoài các biến số khác như tỷ lệ đầu tư, chính sách phát triển và sử dụng nguồn lực hiệu quả, chính sách tự do hóa tài chính, vai trò của chính phủ, và cấu trúc tuổi lao động. Sử dụng số liệu 1996-1997, Lee(2000) chỉ ra mối quan hệ thuận chiều lớn giữa mức vốn nhân lực - được đo lường bằng các tỷ lệ tham gia các cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học) - và tăng trưởng kinh tế ở Hàn Quốc; nhưng nghiên cứu này cũng chỉ ra mối quan hệ nghịch chiều lớn giữa chất lượng vốn nhân lực, được tính bằng tỷ lệ số sinh viên trên giáo viên và tỷ phần chi tiêu chính phủ cho giáo dục, và tăng trưởng kinh tế. Đối với Đài Loan, nghiên cứu của Lin (2004) cho thấy giáo dục phát triển hơn có ảnh hưởng lớn và thuận chiều với phát triển kinh tế của nước này trong giai đoạn 1965-2000, trong đó, các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kiến trúc đóng vai trò quan trọng nhất cho phát triển.
Thứ hai, giáo dục cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua những bổ sung của nó cho các yếu tố tăng trưởng khác. Đáng chú ý, kết luận này có được từ nghiên cứu thực tế Hàn Quốc. Vốn nhân lực đóng góp vào tăng trưởng kinh tế thông qua sự bổ sung của nó cho tính minh bạch (Kwack và Lee 2006), vốn vật thể (Pyo 1995; Kang 2006), và xuất khẩu (Kang 2006).
Thứ ba, giáo dục tác động gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Ở Trung Quốc, giáo dục là một thành tố cần thiết giúp cải thiện hiệu quả phân bổ vốn thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (Narayan và Smyth 2006). Một cách thức tương tự được thực hiện ở Việt Nam. Han và Baumgarte (2000) tìm ra đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp phần lớn vào tăng trưởng của Việt Nam. Cùng với việc chuyển đổi thị trường nhanh chóng, Việt Nam đã có những thành công với sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, giảm đói nghèo, mở rộng giáo dục trong suốt thời gian đổi mới kinh tế kể từ năm 1986 (Kikuchi 2007).
Ở hầu hết các quốc gia, thành tựu giáo dục là một yếu tố quan trọng quyết định thu nhập ở tầm vi mô, như trên thị trường lao động đô thị ở Trung Quốc (Maurer-Fazio và Dinh 2004). Dựa trên phân tích số liệu của Indonesia vào năm 1995, Duflo (2001) kết luận nếu tăng thêm một trẻ em học tiểu học trên 1000 trẻ sẽ dẫn tới việc tăng bình quân từ 0.12 đến 0.19 năm đi học cũng như tăng 1.5 đến 2.7% mức lương; tương đương lợi ích kinh tế có được từ giáo dục là khoảng 6.8 đến 10.6%. Ở Malaysia, giáo dục cũng là yếu tố quan trọng quyết định thu nhập, ngoài giới tính và chủng tộc (Milanovic 2006). Giáo dục cũng là yếu tố quan trọng quyết định thu nhập ở Singapore. Singapore bắt đầu tăng trưởng nhanh với lợi thế mức lương lao động thấp; nhưng điều này không điều này không được duy trì lâu dài - mức lương tăng cùng với sự phát triển của giáo dục (Huff 1999). Sử dụng số liệu từ khảo sát hộ gia đình năm 1998, Kikuchi (2007) tìm ra giáo dục là một yếu tố quan trọng quyết định thu nhập ở Việt Nam. Ở Đài Loan, lợi ích do lao động có trình độ cao đẳng tạo ra tăng lên kể từ năm 1980 (Lin và Orazem 2004).
Có nhiều nghiên cứu không tìm ra được các bằng chứng về sự đóng góp của giáo dục đối với thành công kinh tế. Trong nhiều trường hợp, đóng góp của giáo dục lớn hơn so với các nhân tố khác. Các nghiên cứu trong những năm 1980 nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến lược định hướng xuất khẩu, tự do hóa thương mại và kiểm soát tỷ giá trong thành công kinh tế của Hồng Kông (Haulman 1996; Chen 1997); nhưng giáo dục chỉ được xem xét như là một điều kiện trước tiên cho tăng trưởng kinh tế dài hạn, đầu tư vào giáo dục chưa tạo ra kết quả ngay được.
Kang (2006) cho rằng “sự thần kỳ” không có thực ở Hàn Quốc, với giả định về sự gia tăng lợi thế công nghệ theo quy mô, tăng trưởng có được là nhờ sự tích lũy nhanh chóng của vốn. Không có đủ bằng chứng để khẳng định giáo dục là yếu tố hàng đầu quyết định tăng trưởng Malaysia. Công nghiệp hóa nhờ nâng cao năng suất dường như tốt hơn so với các nhân tố tăng trưởng khác (Rahman 1998). Mặc dù giáo dục được chú trọng và mở rộng ở Malaysia, lợi ích từ giáo dục vẫn tăng không đáng kể trong giai đoạn 1984-1997 (Milanovic 2006). Nghiên cứu số liệu giai đoạn 1980-2001 gần đây ở Philippines kết luận rằng tăng trưởng dân số là một nhân tố tác động nhiều tới tăng trưởng kinh tế; giáo dục có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế nhưng không đáng kể (Canlas 2003)[24]. Đối với Đài Loan, năng lực xuất khẩu là yếu tố đóng góp nhiều nhất cho tăng trưởng GNP bình quân (Fan và Fan 2004).
Có nhiều yếu tố khác có thể liên kết giữa giáo dục với tăng trưởng kinh tế.  Ví dụ, chính sách “một con” của Trung Quốc giúp nền giáo dục nước này phát triển[25]. Tỷ lệ sinh, được xác định bằng tổng số trẻ bình quân được một phụ nữ sinh ra, giảm từ 2.9 năm 1979 xuống 1.7 năm 2004, với tỷ lệ 1.3 ở thành thị và gần bằng 2.0 ở khu vực nông thôn (Hesketh et al. 2005). Ít trẻ hơn và thu nhập tăng lên làm cho ngân sách của mỗi gia đình chi cho giáo dục tăng lên[26].
Chủ nghĩa thuộc địa có thể cũng đem lại nhiều tác động tích cực cho phát triển giáo dục, như bằng chứng ở Hàn Quốc, do sự chuyển giao công nghệ cùng với vốn vật thể (Soo Cha 2004), đầu tư lớn vào giáo dục trong suốt giai đoạn khôi phục sau chiến tranh (Harvie và Lee 2003), và với các ngành thâm dụng lao động đã đóng vai trò then chốt trong công cuộc chuyển đổi nền kinh tế của Hàn Quốc mà được bắt đầu với kế hoạch năm năm vào 1962 (Harvie và Lee 2003).

Đó có phải là mối quan hệ hai chiều?
Cũng như nhiều khu vực khác, có mối quan hệ nhân quả hai chiều quan trọng giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tế ở Đông Á. Có ít nhất hai cách có hiệu lực để tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng tới hệ thống giáo dục ở Đông Á. Đầu tiên, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng giữa giai đoạn 1979 và 1994 làm tăng cầu lao động có trình độ, kết quả là số người tham gia học tập tăng lên rất nhiều. Ngược lại, điều này dẫn tới việc nâng cao tính cạnh tranh của lao động có trình độ, làm cho thu nhập và tăng trưởng kinh tế cao hơn (Zin 2005). Thứ hai, hệ thống giáo dục ở hầu hết các nền kinh tế Đông Á được hình thành và mở rộng trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế. Do một số quốc gia ở khu vực Đông Á có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nước phương Tây nên việc ‘phương Tây hóa’ hệ thống giáo dục của các nước này là điều không thể tránh khỏi do nhu cầu gia nhập thị trường quốc tế theo định hướng phương Tây (Altbach 1989).
Đối với chuyển đổi kinh tế trong thời gian dài, Nhật Bản có thể là một điển hình về mô hình hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và giáo dục. Trong giai đoạn sau Thế chiến II, vốn nhân lực được Nhật Bản nhìn nhận là nguồn lực ưu thế cho tăng trưởng. Dự báo về tăng trưởng thấp do sự thiếu hụt vốn, là hệ quả của chiến tranh, lại có kết quả đối chiếu trái ngược đáng ngạc nhiên với mức tăng trưởng cao trên thực tế (Nakamura 1981)[27]. Giáo dục tiểu học tác động lớn tới tăng trưởng kinh tế, trong cả giai đoạn trước và sau chiến tranh, trong khi giáo dục phổ thông và giáo dục đại học ảnh hưởng tới tăng trưởng nhiều hơn trong giai đoạn hậu chiến (Self và Grabowski 2003)[28]. Các kết quả này cho thấy khi một nền kinh tế chuyển lên giai đoạn tăng trưởng cao hơn, nền giáo dục trình độ cao hơn luôn được đòi hỏi. Mối quan hệ của Nhật Bản với các thành viên khác trong OECD cũng tác động tới các mối liên kết kinh tế với phát triển khoa học của nước này (Altbach 1989).

Gợi ý chính sách

Bỏ qua bằng chứng không rõ ràng về vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế, đầu tư cho giáo dục vẫn phải được chính phủ các nước thực hiện. Các nhà hoạch định chính sách phải xem xét những tác động dài hạn của chi phí đầu tư không chỉ lên hiệu quả của nền kinh tế mà còn phúc lợi của toàn xã hội. Do đó, việc thiết kế một hệ thống giáo dục hiệu quả và hiệu suất là rất quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu trong dài hạn.
Thiết kế các chương trình giáo dục liên quan có hiệu quả là cần thiết nhưng cũng là một nhiệm vụ khó khăn. Các nghiên cứu ban đầu nhấn mạnh rằng giáo dục chỉ có thể có tác động lớn tới tăng trưởng kinh tế nếu nó có thể: (i) kích thích đổi mới (Nelson và Phelps 1966); (ii) thúc đẩy động cơ tối đa hóa lợi nhuận cho lao động (Romer 1990); (iii) khả năng tiếp cận cơ hội học tập, đặc biệt là giáo dục tiểu học và giáo dục phổ thông, nhằm đạt được sự bình đẳng trong thu nhập và các mối liên kết trong xã hội (Ngân hàng Thế giới 1993); và (iv) được bổ sung và hỗ trợ bởi đầu tư vốn (Hanf et al. 1975).
Cụ thể hơn, Lim (1996) chú trọng rằng giáo dục có thể đóng góp tới tăng trưởng kinh tế nếu nó giúp cải thiện chất lượng của lực lượng lao động, các kỹ năng quản lý, khả năng quản lý, và tính linh động, khả năng dịch chuyển của lao động; nếu nó tiếp cận được các thông tin mới để chuyển đổi nhanh hơn; và nếu giáo dục giúp xóa bỏ các rào cản xã hội và thể chế. Một chương trình giáo dục đặt tư duy khoa học, các kỹ năng toán học, và thành thạo ngôn ngữ làm trung tâm sẽ đạt được hiệu quả trong việc nâng cao năng suất (Benavot 1992). Sáng tạo cũng có thể là một thành tố quan trọng của hệ thống giáo dục trong tương lai. Một vài nước Đông Á theo đuổi chiến lược phát triển của Nhật Bản bằng việc khuyến khích phát triển các ngành theo trình độ công nghệ thấp, trung và công nghệ cao. Tuy nhiên, không giống Nhật Bản, tăng trưởng TFP của các nước này là rất thấp (Collins et al.1996:457).
Việc kết hợp được các điều kiện tiên quyết ở trên là một thách thức cực kỳ khó khăn đối với bất kỳ nền kinh tế nào, đặc biệt là các nền kinh tế có mức thu nhập thấp cần phải cân bằng sự gia tăng trong chất lượng và số lượng. Nhìn chung, trong giai đoạn đầu phát triển, số lượng người đi học là chính sách được ưu tiên hơn là chất lượng của nó. Do khía cạnh hàng hóa công của giáo dục, có ý kiến cho rằng chính phủ cần phải đảm bảo tất cả trẻ em có cơ hội đến trường. Tuy nhiên, tại nhiều nước Đông Á, gia tăng số lượng đạt được bằng việc bỏ qua chất lượng, ví dụ, tại Indonesia. Tương phản với việc nâng cao đáng kể số lượng tham gia giáo dục, chất lượng giáo dục còn quá thấp so với kỳ vọng vì cấu trúc chương trình giáo dục quá tải và riêng biệt, thiếu hụt nguồn lực (Jones và Hagul 2001), và các kỳ thi quốc gia không được kiểm soát tốt (EBTANAS) (Oey-Gardiner 2000). Một nghiên cứu thực tế rõ ràng về lợi ích của giáo dục, liên quan tới xem xét chi phí và lợi ích của giáo dục, là cần thiết nhằm hỗ trợ công việc của các nhà hoạch định chính sách.
Trong khu vực giáo dục đương thời, chính phủ các nước cũng có thể phản ứng phù hợp với các tác động của toàn cầu hóa. Với sự tồn tại tính đa quốc gia của nền kinh tế, toàn cầu hóa trong giáo dục đem lại lợi ích cũng như gây ra chi phí. Biện luận đương thời về tính đa quốc gia của giáo dục, định vị các nước phương Tây như là ‘tiêu chuẩn vàng’, đưa ra lực đẩy tích cực để ‘bắt kịp’. Nhưng điều này có thể là một sự đe dọa văn hóa châu Á. Anh văn thay thế ngôn ngữ bản địa, được sử dụng trong các lớp học, các giáo trình viết bằng tiếng Anh được sử dụng rộng rãi, thị trường lao động yêu cầu các ứng viên xin việc phải thành thạo trong việc sử dụng tiếng Anh như là một tiêu chí bắt buộc. Một hệ quả của việc suy giảm lòng tự hào dân tộc và ý thức sở hữu văn hóa riêng là sự suy giảm về sự ủng hộ chính trị cho các chính sách của chính phủ, bao gồm các chính sách kinh tế làm cản trở mở rộng kinh tế.
Theo các quan điểm như trên, việc bảo tồn văn hóa trở nên rất cần thiết. Thật đáng chú ý về cách thức Nhật Bản bảo tồn truyền thống văn hóa và đồng thời phát triển một hệ thống giáo dục hiện đại. Nhật Bản đã học hỏi có chọn lọc và biến đổi cho phù hợp một số điểm từ hệ thống giáo dục của Pháp, Đức và Hoa Kỳ (Altbach 1989, Duke 1996). Nhưng Nhật Bản cũng thành công trong việc giữ gìn các giá trị văn hóa[29]. Văn hóa châu Á khó tương thích về sự phù hợp thông qua việc sử dụng trường học như là các cơ quan đại diện khuyến khích đồng nhất của quốc gia. Các quốc gia có hệ thống giáo dục tập trung có thể ủy quyền cho chính quyền các địa phương linh hoạt giới thiệu các ngôn ngữ và nghệ thuật trong chương trình đào tạo của hệ thống giáo dục. Cách tiếp cận này thực tế được thực hiện ở Indonesia thông qua việc giới thiệu một khóa học được gọi là muatan lokal (đặc trưng địa phương). Trong một kỷ nguyên mở đối với những gì đang xảy ra trong phần còn lại của thế giới là không thể tránh khỏi, điều này có thể đảm bảo ở mức tối thiểu là thế hệ tiếp theo ở Indonesia biết về văn hóa truyền thống của quốc gia này.
Một yếu tố then chốt khác cho thành công trong giáo dục là cách thức có thể tiếp cận giáo dục. Tranh cãi hiện nay ở Đông Á là giữa việc tập trung hóa và phi tập trung hóa trong giáo dục. Tập trung hóa trong quản lý các hệ thống giáo dục có nhiều rủi ro tiềm ẩn do tính dễ bị tổn thương bởi các dao động kinh tế, bằng chứng điển hình là ở Trung Quốc trong suốt thời kỳ lạm phát 1988 (Wang 2001) và ở Indonesia trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997. Thực tế diễn ra buộc các quốc gia này lựa chọn phi tập trung qua việc trao quyền linh động hơn cho chính quyền các địa phương thực hiện mục tiêu giáo dục. Ở Trung Quốc, chính sách này đã làm cho số người tham gia học đại học tăng lên đáng kể (Wang 2001).
Tuy nhiên, phi tập trung hóa cũng có nhiều vấn đề của nó. Sinh viên nghèo rất khó khăn để tiếp tục tham gia học tập khi chính phủ cắt giảm chi tiêu cho giáo dục. Như ở Trung Quốc, một tác động dễ thấy là các bậc phụ huynh ít có điều kiện cho con em học tập xem giáo dục ở gia đình như là một phương án thay thế cho giáo dục chính thức, kết quả quá trình học tập khó khăn hơn; điều này gây ra nhiều tác động tiêu cực đến sự phát triển trí tuệ và nhân cách của trẻ (Zhu và Wu 1991). Trong khi phi tập trung hóa có thể được sử dụng như là một phương án đối phó với khủng hoảng kinh tế, phương án này cũng dễ bị tổn thương do sự suy giảm kinh tế (Jones và Hagul 2001)-có lẽ do nó làm cho những đóng góp của các bậc cha mẹ lớn hơn. Trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997, thu nhập thực của các hộ gia đình giảm sút làm cho số lượng học sinh bỏ học ở Indonesia tăng rất nhiều. Hơn thế nữa, tập trung hóa giáo trong một nền kinh tế với nhiều địa phương có nhiều khác biệt thậm chí có thể dẫn đến tình trạng thu nhập bất bình đẳng và, hậu quả tồi tệ nhất, đóng cửa quốc gia - không giao thương, hội nhập với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, xu hướng hiện tại ở Đông Á cho thấy phi tập trung hóa được sử dụng nhiều hơn trong việc lựa chọn chính sách.

Một số kết luận

Cách tốt nhất để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển là thu hẹp khoảng cách về công nghệ với các nước phát triển. Giáo dục là điều kiện cần thiết có thể giúp một quốc gia ‘bắt kịp’ giới hạn công nghệ; nhưng giáo dục chưa phải là một điều kiện đủ. Có nhiều chính sách và phương án mà các nước đang phát triển có thể theo đuổi nhằm xóa bỏ khác biệt công nghệ, như khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và công nghệ nước ngoài, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển các định chế hiệu quả, xây dựng hệ thống tài chính minh bạch, nâng cao hiệu quả năng lực quản lý. Thực vậy, sự bổ sung giữa giáo dục và các nhân tố khác sẽ tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Cũng thật quan trọng khi xem xét các khía cạnh phi tài chính và phi kinh tế, như bảo tồn văn hóa và liên kết xã hội. Các khía cạnh này có thể bị tác động ngược như là kết quả của tăng trưởng kinh tế; điều này lại có thể cản trở tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Bài học quan trọng khác là không nên kỳ vọng về những tác động tức thời của phát triển giáo dục đến tăng trưởng kinh tế. Có thể mất nhiều thời gian nhưng giáo dục là một sự đầu tư cần thiết trong dài hạn.

Tài liệu tham khảo
Altbach, P.G., 1989. ‘Twisted roots: the Western impact on Asian higher education’, Higher Education, 18(1):9–29.
Baltagi, B.H., 1995. Econometric Analysis of Panel Data, John Wiley and Sons., New York.
Barro, R.J. and Lee, J.W., 1996. ‘International measures of schooling years and schooling quality’, The American Economic Review, 86(2):218–23.
Bayhaqi, A., 2001. Education and macroeconomic performance in Indonesia: a comparison with other ASEAN economies, EADN Working Papers No.8., East Asian Development Network, Bangkok. Available online at <http://www.eadn.org/ vr13(2000).pdf>, accessed 13 May 2008.
Benavot, A., 1992. ‘Curricular content, educational expansion, and economic growth’, Comparative Education Review, 36(2):150–74.
Benhabib, J. and Spiegel, M.M., 1994. ‘The role of human capital in economic development evidence from aggregate cross country data’, Journal of Monetary Economics, 34(2):143–73.
Blaug, M., 1976. ‘The empirical status of human capital theory: a slightly jaundiced survey’, Journal of Economic Literature, 14(3):827–55.
Bloom, D.E.; Canning, D. and Malaney, P.N., 2000. ‘Population dynamics and economic growth in Asia’, Population and Development Review, 26 (Supplement: Population and Economic change in East Asia):257–90.
Bosworth, B.P. and Collins, S.M., 2003. ‘The empirics of growth: an update’, Brookings Papers on Economic Activity, 2003(2):113–79.
Bowles, S. and Gintis, H., 1975. ‘The problem with human capital theory—a Marxian critique’, American Economic Review, 65(2):74–82.
Brist, L.E. and Caplan, A.J., 1999. ‘More evidence on the role of secondary education in the development of lower-income countries: wishful thinking or useful knowledge’, Economic Development and Cultural Change, 48(1):155–75.
Canlas, D.B., 2003. ‘Economic growth in the Philippines: theory and evidence’, Journal of Asian Economics, 14(5):759–69.
Cass, D., 1965. ‘Optimum growth in an aggregative model of capital accumulation’, The Review of Economic Studies, 32(3):233–40.
Chen, E.K.Y., 1997. ‘The total factor productivity debate: determinants of economic growth in East Asia’, Asian-Pacific Economic Literature, 11(1):18–38.
Chou, J., 1995. ‘Old and new development models: the Taiwanese experience’, in T. Ito and A.O. Krueger (ed.), Growth Theories in Light of the East Asian Experience, The University of Chicago Press, Chicago and London NBER-East Asia Seminar on Economics:105–25.
Cohn, E., 1975. The Economics of Education, Ballinger Publishing Company, Cambridge, Massachussets: 392.
Collins, S.M.; Bosworth, B.P. and Rodrik, D., 1996. ‘Economic growth in East Asia: accumulation versus assimilation’, Brookings Papers on Economic Activity, 1996(2):135–203.
Dougherty, C. and Jorgenson, D.W., 1996. ‘International comparisons of the sources of economic growth’, American Economic Review, 86(2):25–9.
Duflo, E., 2001. ‘Schooling and labor market consequences of school construction in Indonesia: evidence from an unusual policy experiment’, American Economic Review, 91(4):795–813.
Duke, B.C., 1996. ‘The dualism in Asian education’, Comparative Education, 3(1):41–7.
Easterly, W. and Levine, R., 2001. It’s not factor accumulation: stylized facts and growth models, Working Paper Series, Central Bank of Chili, Santiago. Available online at <http://ssrn.com/abstract=269108>, accessed 21 February 2008.
Evans, P. and Karras, G., 1996. ‘Do economies converge? Evidence from a panel of U.S. states’, The Review of Economics and Statistics, 78(3):384–8.
Fan, L.-S. and Fan, C.-m., 2004. ‘The viability of Taiwan’s economy: past, present and future’, Taiwan Economic Forum, 2(2):37–52.
Goode, R.B., 1959. ‘Adding to the stock of physical and human capital’, American Economic Review, 49(2):147–55.
Gulati, U.C., 1992. ‘The foundation of rapid economic growth: the case of Four Tigers’, American Journal of Economics and Sociology, 51(2):161–72.
Gundlach, E. and Woessmann, L., 2001. ‘The fading productivity of schooling in East Asia’, Journal of Asian Economics, 12(3):401–17.
Han, V.X. and Baumgarte, R., 2000. ‘Economic reform, private sector development and the business environment in Viet Nam’, Comparative Economic Studies, XLII(3):1–30.
Hanf, T.; Ammann, K.; Dias, P.V.; Fremerey, M. and Weiland, H., 1975. ‘Education: an obstacle to development? Some remarks about the political functions of education in Asia and Africa’, Comparative Education Review, 19(1):68–87.
Hanushek, E.A. and Kimko, D.D., 2000. ‘Schooling, labour-force quality, and the growth of nations’, American Economic Review, 90(5):1184–208.
Hanushek, E.A. and Woessmann, L., 2007. The role of education quality for economic growth, Policy Research Working Paper No. 4122, the World Bank, Washington, DC. Available online at <http://ssrn.com/paper=960379> accessed 2 February 2009.
Harvie, C. and Lee, H.-H., 2003. ‘Export-led industrialisation and growth: Korea’s economic miracle, 1962–1989’, Australian Economic History Review, 43(3):256–86.
Haulman, C.A., 1996. ‘Asia-Pacific economic links and the future of Hong Kong’, Annals of the American Academy of Political and Social Science, 547:153–64.
Hesketh, T.; Lu, L. and Xing, Z.W., 2005. ‘The effect of China’s one-child family policy after 25 years’, New England Journal of Medicine, 353(11):1171–6.
Huff, W.G., 1999. ‘Singapore’s economic development: four lessons and some doubts’, Oxford Development Studies, 27(1):33 55.
Islam, N., 1995. ‘Growth empirics: a panel data approach’, Quarterly Journal of Economics, 110(4):1127–70.
Jackson, T.R.; Hesketh, T. and Xing, Z.W., 2005. ‘China’s one-child family policy’, New England Journal of Medicine, 354:877.
Jones, C., 1998. Introduction to Economic Growth, W. W. Norton & Company, New York.
Jones, G.W. and Hagul, P., 2001. ‘Schooling in Indonesia: crisis-related and longer-term issues’, Bulletin of Indonesian Economic Studies, 37(2):207–31.
Judson, R., 1996. Do low human capital coefficients make sense? A puzzle and some answers. Finance and Economics Discussion Series 96-13, Board of Governors of the Federal Reserve System (U.S.), Washington, DC. Available online at <http://www.federalreserve.gov/pubs/FEDS/1996/199613/199613pap.pdf>, accessed 13 May 2008.
Judson, R., 1996. Do Low Human Capital Coefficients Make Sense? A Puzzle and Some Answers, Finance and Economics Discussion Series 96-13, Board of Governors of the Federal Reserve System (U.S.), Washington, DC. Available online at <http://www.federalreserve.gov/pubs/FEDS/1996/199613/199613pap.pdf>, accessed 13 May 2008.
Kang, J.M., 2006. ‘An estimation of growth model for South Korea using human capital’, Journal of Asian Economics, 17(5):852–66.
Kikuchi, T., 2007. ‘An analysis of the impacts of development on Gini inequality using grouped and individual observations: examples from the 1998 Vietnamese Household Expenditure Data’, Journal of Asian Economics, 18(3):537–52.
Koopmans, T.C., 1963. On the concept of optimal economic growth, Cowles Foundation Discussion Papers 163, Cowles Foundation Yale University, New Haven.
Krueger, A.B. and Lindahl, M., 2001. ‘Education for growth: why and for whom’, Journal of Economic Literature, 39(4):1101–36. Krugman, P., 1994. ‘The myth of Asia’s miracle’, Foreign Affairs, 73(6):62–78.
Kwack, S.Y. and Lee, Y.S., 2006. ‘Analyzing the Korea’s growth experience: the application of
R&D and human capital based growth models with demography’, Journal of Asian Economics, 17(5):818–31.
Kyriacou, G., 1991. Level and growth effects of human capital: a cross-country study of the convergence hypothesis, Working Papers 91-26, C.V. Starr Center for Applied Economics, New York University, New York.
Lall, S., 1998. ‘Meeting the human capital needs of maturing Asian economics’, in C. Foy; F. Harrigan and D. O’Connor (eds), The Future of Asian in the World Economy, OECD Development Centre, Paris:149–94.
Lee, M.; Longmire, R.; Matyas, L. and Harris, M., 1998. ‘Growth convergence: some panel data evidence’, Applied Economics, 30(7):907–12.
Lee, N., 2000. ‘Education and economic growth in Korea, 1966 to 1997’, Journal of Applied Business Research, 16(4):83–93.
Lim, D., 1996. Explaining Economic Growth: a new analytical framework, Edward Elgar, Cheltenham.
Lin, C.-H.A. and Orazem, P.F., 2004. ‘A re-examination of the time path of wage differentials in Taiwan’, Review of Development Economics, 8(2):295–308.
Lin, T.-C. 2004. ‘The role of higher education in economic development: an empirical study of Taiwan case’, Journal of Asian Economics, 15(2):355–71.
Maurer-Fazio, M. and Dinh, N., 2004. ‘Differential rewards to, and contributions of, education in urban China’s segmented labor markets’, Pacific Economic Review, 9(3):173–89.
Mehmet, O., 1984. Regional Cooperation in High-Quality Manpower Development: The Feasibility of an ASEAN Student Aid Fund, RIHED, Singapore.
Mehmet, O. and Hoong, Y.Y., 1985. ‘An empirical evaluation of government scholarship policy in Malaysia’, Higher Education, 14(2):197–210.
Milanovic, B., 2006. ‘Inequality and determinants of earnings in Malaysia, 1984–97’, Asian Economic Journal, 20(2):191–216.
Mincer, J., 1991. Education and unemployment, NBER Working Paper No. W3838. National Bureau of Economic Research, Massachusetts. Available online at <http://ssrn.com/abstract=226736>, accessed 10 October 2008.
Mingat, A., 1998. ‘The strategy used by highperforming Asian economies in education: some lessons for developing countries’, World Development, 26(4):695–715.
Miralao, V.A., 2004. ‘The impact of social research on education policy and reform in the Philippines’, International Social Science Journal, 179:75–87.
Morris, P., 1996. ‘Asia’s four Little Tigers: a comparison of the role of education in their development’, Comparative Education, 32(1):95–109.
Nakamura, J.I., 1981. ‘Human capital accumulation in premodern rural Japan’, The Journal of Economic History, 41(2):263–81.
Narayan, P.K. and Smyth, R., 2006. ‘Higher education, real income and real investment in China: evidence from Granger causality tests’, Education Economics, 14(1):107–25.
Nelson, R.S. and Phelps, E., 1966. ‘Investment in humans, technology diffusion, and economic growth’, American Economic Review, 56(2):69–75.
Oey-Gardiner, M., 2000. ‘Schooling in a decentralised Indonesia: new approaches to access and decision making’, Bulletin of Indonesian Economic Studies, 36(3):127–34.
Pack, H. and Nelson, R.R., 1997. The Asian miracle and modern growth theory, Policy Research Working Paper No. 1881, the World Bank, Wasington, DC. Available online at <http://ssrn.com/abstract=604969>, accessed 25 February 2008.
Permani, R., 2008. Education as a determinant of economic growth in East Asia: historical trends and empirical evidences (1965–2000), presented at the Asia
Pacific Economic and Business History Conference on 13 February 2008, University of Melbourne, Melbourne. Available online at <http://www.uow.edu.au/commerce/econ/ehsanz/pdfs/Permani%202008.pdf>, accessed 13 May 2008.
Pigou, A.C., 1928. A Study in Public Finance, Macmillan, London.
Pritchett, L., 1996. Where has all the education gone?, Policy Research Working Paper No. 1581, the World Bank, Washington, DC. Available online at <http://ssrn.com/abstract=569239>, accessed 25 February 2008.
Pritchett, L. and Filmer, D., 1997. What education production functions really show: a positive theory of education expenditures, Policy Research Working Paper No.1975, the World Bank, Washington, DC. Available online at <http://ssrn.com/abstract=597210>, accessed 25 February 2008.
Pyo, H.K., 1995. ‘A time series test of the endogenous growth model with human capital’, in T. Ito and
A.O. Krueger (eds), Growth Theories in Light of the East Asian Experience, NBER-East Asia Seminar on Economics, the University of Chicago Press, Chicago and London:229–42.
Rada, C. and Taylor, L., 2006. Developing and transition economies in the late 20th century: diverging growth rates, economic structures, and sources of demand. DESA Working Paper No. 34, United Nations Department of Economic and Social Affairs, New York. Available online at <http://www.un.org/oesa/desa/papers/2006/wp34_2006.pdf>, accessed 13 May 2008.
Rahman, A.A.A., 1998. ‘Economic reforms and agricultural development in Malaysia.’ ASEAN Economic Bulletin, 15(1):59–76.
Ramsey, F.P., 1928. ‘A mathematical theory of saving’, The Economic Journal, 1928, 38 (December): 543–59.
Revoredo, C.L. and Morisset, J.P., 1999. Savings and education: a life-cycle model applied to a panel of 74 countries, Policy Research Working Paper No. 1504, the World Bank, Washington, DC. Available online at <http://papers.ssrn.com/abstract=620680>, accessed 25 February 2008.
Richardson, P., 1997. Globalisation and Linkages: Macro-structural Challenges and Opportunities, OECD Economics and Department Working Papers, doi:10.1787/807377186466, OECD Publishing, Paris. Available online at <http://titania.sourceoecd.org/vl=3355586/cl=15/nw=1/rpsv/cgi-bin/wppdf?file=5lgsjhvj8626.pdf>, accessed 21 February 2008.
Romer, P.M., 1990. ‘Endogenous technological change’, The Journal of Political Economy, 98(5):S71–102.
——, 1986. ‘Increasing returns and long-run growth’, The Journal of Political Economy, 94(5):1002–37.
Sachs, J.D. and Warner, A.M., 1997. ‘Fundamental sources of long-run growth’, American Economic Review, 87(2):184–8.
Sarel, M., 1995. Growth in East Asia: what we can and what we cannot infer from it, IMF Working Paper No. 95/98, International Monetary Fund,Washington, DC. Available online at <http://ssrn.com/abstract=883245>, accessed 25 February 2008.
Schultz, T.W., 1988. ‘On investing in specialized human capital to attain increasing returns’, in G. Ranis and T.P. Schultz (eds), The State of Development Economics, Basil Blackwell, Oxford:339–52.
——, 1961. ‘Investment in human capital’, American Economic Review, 51(1):1–17.
Self, S. and Grabowski, R., 2003. ‘Education and long-run development in Japan’, Journal of Asian Economics, 14(4):565–80.
Solow, R.M., 1957. ‘Technical change and the aggregate production function’, Review of Economics and Statistics, 39(3):312 20.
Soo Cha, M., 2004. ‘Facts and myths about Korea’s economic past’, Australian Economic History Review, 44(3):278–93.
Stroombergen, A.; Rose, D. and Nana, G., 2002. Review of the statistical measurement of human capital, research report, Statistics New Zealand, Auckland. Available at <http://www.stats.govt.nz/NR/rdonlyres/7B2D1CD6-D05B-4BD4-9999-1A0F6A4548C0/0/humancapital.pdf>, accessed 2 February 2009.
Uzawa, H., 1965. ‘Optimum technical change in an aggregative model of economic growth’, International Economic Review, 6(1):18–31.
Wang, X., 2001. ‘A policy analysis of the financing of higher education in China: two decades reviewed’, Journal of Higher Education Policy and Management, 23(2):205–17.
World Bank, 2007. World development indicators online, the World Bank, Washington, DC. Available online (restricted) at <http://publications.worldbank.org/WDI/>, accessed 29 December 2007.
World Bank, 1993. ‘Overview: the making of miracle’, in World Bank, The East Asian Miracle: Economic Growth and Public Policy, Oxford University Press, New York:1–26.
Zhu, Y and Wu, R., 1991. ‘On the problem of “excessiveness” of family education in China’, International Journal of Social Economics, 18(8–9–10):137–40.
Young, A., 1991. ‘Learning by doing and the dynamic effects of international trade’, The Quarterly Journal of Economics, 106(2):369–405.
Young, A., 1994. ‘Lessons from the East Asian NICs: a contrarian view’, European Economic Review, 38(3–4):964–73.
Young, A., 1995. ‘The tyranny of numbers: confronting the statistical realities of the East Asian growth experience’, The Quarterly Journal of Economics, 110(3):641–80.
Zin, R.H.M., 2005. ‘Income distribution in East Asian developing countries: recent trends’, Asian-Pacific Economic Literature, 19(2):36–54.







[1] Bản quyền tiếng Anh của bài viết này “The Role of Education in Economic Growth in East Asia: a survey: © 2009 The Author; Journal compilation © 2009 Crawford School of Economics and Government, The Australian National University and Blackwell Publishing Asia Pty Ltd.
[2] Học giả nghiên cứu tại the School of Economics, University of Adelaide.
[3] Người dịch: Đặng Đình Thắng (Khoa Kinh tế Phát triển, Đại học Kinh tế TP.HCM, Việt Nam). Dịch giả xin gửi lời cảm ơn tới thầy Phùng Thanh Bình (Khoa Kinh tế Phát triển, Đại học Kinh tế TP.HCM) vì sự hỗ trợ của thầy về tài liệu và những ý kiến đóng góp cho bản dịch này.

[4] Xem trong Cohn (1975:1823 )về tổng hợp các lý thuyết của các nhà kinh tế học cổ điển.
[5] Có sẵn dữ liệu và các thông tin; Đông Á ở đây được hiểu là các nước ASEAN (Brunei , Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, và Việt Nam). Đông Bắc Á bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, và Hồng Kông. Tuy nhiên, có một điều đáng tiếc vì thông tin không đầy đủ nên bài viết này không thể đưa ra những phân tích riêng cho từng quốc gia Brunei , Campuchia, Lào, Myanmar, và Đài Loan.
[6] Xem trong Krueger và Lindahl (2001) về khảo sát các bài viết.
[7] Ngay cả khi những nỗ lực lớn được thực hiện nhằm làm rõ các lý thuyết, thì bài viết này vẫn còn xác suất không thể bao hàm được một số lý thuyết quan trọng - những khía cạnh khác về mối quan hệ giữa giáo dục với tăng trưởng kinh tế.
[8] Những đóng góp quan trọng khác là của Ramsey, Koopmans, Cass; những bài viết của họ đã cố gắng lý giải tỷ lệ tiết kiệm. Xem Ramsey (1928), Koopmans (1963), Cass (1965).
[9] Một minh họa đơn giản nhằm phân biệt giữa vốn nhân lực với tiến bộ công nghệ như sau: Trong khi có thể sử dụng hiệu ứng tích lũy của giáo dục chính thức để đo lường vốn nhân lực, thì tiến bộ công nghệ là số lượng các thiết kế mới có được từ kết quả tích lũy kiến thức trong khu vực giáo dục (Romer 1990). Điều này ngụ ý rằng việc phân bổ lao động có kỹ năng giữa các khu vực nghiên cứu và sản xuất ảnh hưởng đáng kể tới tiến bộ công nghệ (Uzawa 1965). 
[10] Một giải pháp có thể chấp nhận là đưa vào mô hình tập hợp các biến ngoại sinh rộng hơn, bao gồm các công cụ đánh giá vị trí địa lý, chất lượng nguồn lực, và chính sách kinh tế, điều này được xác định trong nghiên cứu của Sachs và Warner (1997). Các giải pháp khác có thể được xây dựng thông qua các phân tích kinh tế lượng, được tổng hợp trong phần sau.
[11] Ví dụ, Sarel (1995) đưa ra kết luận đóng góp của TFP cho tăng trưởng kinh tế có tính độc lập cao so với đóng góp của vốn vật thể. Revoredo và Morisset (1999) cho rằng có một mối quan hệ giữa vốn nhân lực với tiết kiệm, vốn nhân lực có tương quan nghịch với tiết kiệm, đặc biệt là trong dài hạn.
[12] Hầu hết các nghiên cứu ở một quốc gia đều sử dụng các phân tích số liệu chuỗi thời gian của quốc gia đó. Xem ví dụ, Chou (1995) ở Đài Loan và Pyo (1995) ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp bình phương bé nhất (least-squares regression) cho phân tích dữ liệu dưới mức chuẩn của quốc gia đó là không phổ biến, ví dụ, Bayhaqi (2001).
[13] Xem ví dụ về phân tích dữ liệu bảng của các nước OECD trong Lee et al. (1998), Hoa Kỳ trong Evans và Karras (1996), và dữ liệu đa quốc gia trong Islam (1995).
[14] Tuy nhiên, phân tích dữ liệu bảng cũng có một vài vấn đề, như khía cạnh chuỗi thời gian ngắn và các giả định không rõ ràng về khả năng các tác động đến các quốc gia là “cố định” hay “ngẫu nhiên”. Có đề nghị là nên áp dụng các ước lượng tác động-cố định hơn là các ước lượng tác động-ngẫu nhiên, tác động đến một quốc gia cho trước có thể tương quan với các biến ngoại sinh có trong mô hình.
[15] Cũng có một số nghiên cứu sử dụng các biến khác đại diện cho vốn nhân lực, như kỳ vọng cuộc sống trong Sachs và Warner (1997), Bloom et al. (2000), tỷ lệ giới trẻ sống phụ thuộc trong Bloom et al. (2000), tỷ lệ sinh trong Bloom et al.(2000), và cấu trúc tuổi trong Kwack và Lee (2006). Nhưng các biến này không được sử dụng nhiều như các biến tham gia giáo dục.
[16] Mặt khác, Kyriacou (1991) đề nghị một phương pháp nhằm xây dựng các chỉ số vốn nhân lực dựa trên ước lượng về mối quan hệ giữa số năm đi học trung bình của lực lượng lao động và các tỷ lệ tham gia giáo dục. Tuy nhiên, khi kết quả các biến tích lũy có được từ phương pháp này được phát triển từ các biến tổng hợp trước đó, kết quả này vẫn có một số hạn chế như đã trình bày ở phần trên. Pritchett (1996) giả định một phương án thay thế để đo lường sự tích lũy vốn giáo dục khi chiết khấu giá trị tiền lương có được do giáo dục. Nhưng để áp dụng phương pháp này, trước tiên cần phải thực hiện một nghiên cứu vi mô làm nền tảng để ước lượng sự gia tăng của tiền lương mà một lao động nhận được tương ứng với số năm đi học tăng thêm của họ. Điều này có thể là một vấn đề nếu mối quan hệ giữa tiền lương và số năm đi học không có ý nghĩa.
[17] Tầm quan trọng của các trọng số phù hợp là một chủ đề nội tại. Phần lớn các nghiên cứu chỉ sử dụng các trọng số đã được giả định.   
[18] Một ví dụ là của Krugman (1994), người đã đưa ra dự báo rằng “những nền kinh tế con hổ” sẽ giảm tốc độ tăng trưởng trước cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á. Nghiên cứu khác của Young (1991), Young (1994), Young (1995) và gần đây là nghiên cứu của Collins và Bosworth (2003). Quan điểm của Krugman lại đối lập với quan điểm của các học giả ủng hộ lý thuyết đồng nhất đề cao tầm quan trọng của đổi mới công nghệ. Tranh cãi đối lập giữa lý thuyết tích lũy và đồng nhất được đề cập trong nghiên cứu của Pack và Nelson (1997).
[19] Xem Collins et al. (1996) để hiểu rõ hơn.
[20] Xem Chen (1997): khảo sát sâu về vai trò của TFP như là một yếu tố quyết định tăng trưởng ở khu vực Đông Á.
[21] (Yuong 1995) không ủng hộ ý kiến cho rằng ‘thần kỳ’ Đông Á là nhờ tiến bộ công nghệ hay hiệu suất cao mà đó là tích lũy các nhân tố. Tuy nhiên, Young cho rằng sự tương tác hay hỗ trợ giữa giáo dục và lao động có thể là một nhân tố quan trọng.
[22] Nghiên cứu này cũng làm chú ý về tồn tại của ‘sự hội tụ các điều kiện’ cho tăng trưởng trong khu vực châu Á. Khác biệt giữa mức độ trạng thái ổn định của GDP bình quân đầu người đối với mỗi nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người thực tế giảm một nửa trong khoảng 18 năm. Nếu loại bỏ vốn nhân lực thì giai đoạn này sẽ là 64 năm. Tốc độ hội tụ của các nền kinh tế Đông Á chỉ đạt khoảng một nữa so với các nước OECD.
[23] Lưu ý rằng tham gia giáo dục đại học càng nhiều dẫn tới bình quân số năm đi học tăng lên. Cho biết tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực Đông Á gần như không đổi trong những năm vừa qua, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn đối với lao động có trình độ là biểu hiện của việc thặng dư cung loại lao động này. Nghiên cứu sử dụng trung bình số năm đi học như là một yếu tố quyết định tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người có thể tìm thấy một mối quan hệ có ý nghĩa giáo dục và tăng trưởng kinh tế.
[24] Các ước lượng trong nghiên cứu này có nguy cơ không ý nghĩa do hiện tượng tự tương quan bởi vì sử dụng ước lượng OLS. Những phần dư tăng trưởng, bao gồm tiến bộ công nghệ và các nhân tố tăng trưởng khác hơn là đầu tư, giáo dục và tăng trưởng dân số, có thể tương quan giữa một giai đoạn và giai đoạn kế tiếp. Xem Miralao (2004) để xem xét sâu hơn về giáo dục ở Philippines.
[25] Tác giả cảm ơn Kwoping Tam vì đã nhận ra vấn đề này.
[26]  Xem Hesketh et al. (2005), Jackson et al. (2005) để xem xét cụ thể hơn về các tác động của chính sách này.
[27] Lịch sử hiện đại của Nhật Bản có thể được chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn Tokugawa (1600-1868), trước chiến tranh (1868-1938), và hậu chiến (1945 đến nay) (Self và Grabowski 2003). Cách mạng Minh Trị vào năm 1868 chứng kiến sự dịch chuyển từ vai trò quan trọng của giáo dục phi chính thức Tokugawa, hay giai đoạn tiền-hiện đại, đến vai trò quan trọng của giáo dục chính thức. Tuy nhiên, vai trò của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế không được thừa nhận trong giai đoạn này khi tăng trưởng kinh tế thường được các nhà kinh tế học nhìn nhận trong mối quan hệ với các yếu tố khác như các nguồn lực, cả vốn vật thể và lao động, cũng như đổi mới công nghệ (Nakamura 1981).
[28] Ngược lại, giáo dục dạy nghề không có tác động đến tăng trưởng kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn trước hay sau chiến tranh (Self và Grabowski 2003).
[29] Duke (2006) tranh luận rằng thành công của Nhật Bản là kết quả của việc duy trì văn hóa truyền thống mà người Nhật có được, không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa thuộc địa, và quản lý vùng lãnh thổ, bao gồm các khoảng cách kinh tế; các nhân tố không được các nước khác ở châu Á chia sẻ.